HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
| ||||||
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 09 năm 2016
ĐƠN KHIẾU NẠI Kính gửi: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh I. NGƯỜI KHIẾU NẠI
Người khiếu nại: Ông Nguyễn Đức Thành. II. NGƯỜI BỊ KHIẾU NẠI 1. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2. Kiểm sát viên Võ Chí Thiện - Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 3. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 4. Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng - Kiểm sát viên VKSND thành phố Hồ Chí Minh. 5. Bà Nguyễn Thị Én - Kiểm sát viên VKSND thành phố Hồ Chí Minh. III. NỘI DUNG KHIẾU NẠI CĂN CỨ - Căn cứ Thông báo số 810/TB-VB3-V3 ngày 13 tháng 09 năm 2016 của Quý Viện ; - Căn cứ Giấy xác nhận số 13/GXN-VKSTC-V7 đề ngày 06 tháng 01 năm 2015 về việc nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. NHẬN THẤY
1. Nội dung “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” và nội dung “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” thể hiện tại trang 1 của Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12 tháng 09 năm 2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh đương nhiên bác bỏ nội dung từ dòng 10 đến dòng 18 tại trang 1 của Thông báo số 810.
2. Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 của ông Thành thể hiện: “Hợp đồng lao động giữa hai bên là hợp đồng được giao kết bằng miệng (hợp đồng miệng) và là loại hợp đồng không xác định thời hạn”. Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty là loại hợp đồng không xác định thời hạn. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Thành đã nhiều lần trả lời Hội đồng xét xử là “hai bên không thỏa thuận thử việc”. Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/04/2013 bị ông Thành khiếu nại tới Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh nhưng đến nay vẫn chưa có quyết định giải quyết khiếu nại. Vì các lẽ này, nội dung “ông vào làm thử việc tại Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế” tại dòng 23, trang 1 của Thông báo số 810 đương nhiên bị bác bỏ.
3. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề và thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe thì đương nhiên nghề lái xe là lao động sơ cấp. Do đó, nội dung từ dòng 27 đến dòng 35, trang 1 của Thông báo số 810 đương nhiên bị bác bỏ.
Cố ý lặp đi, lặp lại luận điệu mơ hồ, không rõ ràng, không thuyết phục mà không biết xấu hổ, 4. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa và không chứng minh được nội dung việc làm thử là gì (?) và thời gian thử việc là bao lâu (?). Giả sử có thỏa thuận về thử việc thì thời gian thử việc cũng không được quá 6 ngày đối với lao động sơ cấp là lao động khác theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Điều 32 của Bộ luật lao động. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày, nghĩa là không thử việc. Nội dung 3 ở trên chứng minh nghề lái xe là lao động sơ cấp nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Điều 32 của Bộ luật lao động. Nội dung 2 ở trên chứng minh hai bên thỏa thuận hợp đồng miệng là hợp đồng lao động không xác định thời hạn thể hiện việc làm của ông Thành là nhân viên lái xe đương nhiên bác bỏ luận điệu xuyên tạc nội dung “thỏa thuận miệng về việc thử việc và thời gian thử việc mập mờ, không rõ ràng, không thuyết phục” do Kiểm sát viên Võ Chí Thiện tùy tiện áp đặt theo ý chí chủ quan và trái pháp luật. Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh (i) Công ty, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, (ii) giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Vì các lẽ này, nội dung đoạn cuối trang 1 và nội dung “Do hai bên chỉ thỏa thuận miệng về việc thử việc... Công ty cho rằng ông không đạt yêu cầu… Công ty không vi phạm về thời hạn thử việc theo những điều khoản đã viện dẫn trên” trong đoạn 1 trang 2 của Thông báo số 810 đương nhiên bị bác bỏ.
Dịch Khoản 3 Điều 7 Nghị định 44:
Quyết định số 18 nói rõ qui định. 5. Thông báo số 810 không chứng minh được ông Thành gây ra lỗi gì (?), ông Thành không đạt yêu cầu gì (?). Biên bản hòa giải lao động ngày 24/04/2013 là chứng cứ chứng minh Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Đương nhiên, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Thứ nhất, Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh Hòa giải viên (HGV) và đại diện của Công ty đã thừa nhận “Công ty không chứng minh được lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật lao động” (đại diện của Công ty trả lời HGV là không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành) thì theo quy định tại Điều 80 của BLTTDS đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Thứ hai, Văn bản có xác nhận của các nhân chứng Vũ Thị Phương, Đoàn Văn Túy và Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam Chi nhánh Hồ Chí Minh do ông Thành thu thập và cung cấp là chứng cứ theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của BLTTDS chứng minh (i) việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến Công ty; (ii) đại diện của Công ty cố ý nói sai sự thật. Thứ ba, (i) tình tiết người bán xăng mở nắp bình dầu và đổ xăng là tình tiết công khai mà mọi người đều biết thì đương nhiên là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 80 của BLTTDS, (ii) ông Thành đã và sẽ cung cấp chứng cứ ghi hình tình tiết này tại phiên tòa. Thứ tư, Pháp luật không quy định “1. Việc ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng theo yêu cầu của Công ty là lỗi; 2. Công việc lái xe là nhận lỗi; 3. Việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến Công ty là lỗi” thì đương nhiên 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Thứ năm, HGV và đại diện của Công ty đã thừa nhận SMI không chứng minh được lỗi của ông Thành thì Biên bản hòa giải lao động 24/04/2013 và Quyết định số 18/QĐ/2013 đương nhiên là chứng cứ chứng minh Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Công ty không chứng minh được lỗi của ông Thành theo Điều 87 và thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và hoàn toàn trái Điều 85 và Điều 38 của Bộ luật lao động là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Do đó, yêu cầu “Thứ nhất, Công ty phải hủy Quyết định số 18/QĐ/2013 và ban hành quyết định công khai xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc ký; Thứ hai, Công ty bồi thường một khoản tiền cho ông Thành theo đúng quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật” của ông Thành tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm là hoàn toàn có cơ sở. Vì các lẽ này, nội dung đoạn 1 trang 2 của Thông báo số 810 đương nhiên bị bác bỏ.
Ngang như cua những dòng thông báo 6. Nội dung 8 và Nội dung 9 ở dưới bác bỏ đoạn 2 trang 2 của Thông báo số 810 như sau: 6.1 Tính chất của giám đốc thẩm quy định tại Điều 325 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là xét lại bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12 tháng 09 năm 2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh là có một trong những căn cứ: (a) Kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành; (b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho ông Thành không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; (c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Thành.
Tiền thuế dân nuôi ngươi phục vụ 6.2 Tóm tắt nội dung khởi kiện: Việc khởi kiện là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”. Tranh chấp lao động là “lý do cho ông Nguyễn Đức Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 (viết tắt là Quyết định số 18/QĐ/2013) của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (viết tắt là SMI)”. Lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu tại Quyết định số 18/QĐ/2013 là: “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá: 3.250.000 đồng)”. Nội dung đơn khởi kiện được tóm tắt như sau: - Ngày 26/02/2013, ông Nguyễn Đức Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế đã cùng nhau giao kết hợp đồng lao động theo hình thức hợp đồng miệng và loại hợp đồng không xác định thời hạn. Ngày 01/03/2013, ông Thành bắt đầu làm việc với nội dung công việc là lái xe theo nội dung hợp đồng lao động miệng ngày 26/02/2013. Ngày 26/03/2013, Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013. - Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh: Quan hệ lao động giữa ông Thành và Công ty được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động miệng được thực hiện từ ngày 01/03/2013; Việc làm là lái xe; Thời gian kết thúc hợp đồng lao động theo thỏa thuận là không xác định; Nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật; Lý do Công ty cho ông Thành nghỉ việc là tranh chấp lao động. - Tóm tắt tranh luận, chứng minh và chứng cứ, yêu cầu khởi kiện: Xem nội dung 5 ở trên và các nội dung 6.3, nội dung 6.4 ở dưới. 6.3 Nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật: - Nội dung của giao dịch dân sự trái với Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động và Điều 4, điểm c khoản 1 Điều 122 của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu theo Điều 127, Điều 131, Điều 133, Điều 135 của Bộ luật dân sự và khoản 4 Điều 166 của Bộ luật lao động. - Nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là nội dung bị vô hiệu do trái Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động. Nội dung “Tôi vào làm thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động phát sinh theo nội dung bị vô hiệu này do nhầm lẫn đương nhiên là nội dung bị vô hiệu theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự. - Nội dung 6.4 ở dưới chứng minh các nội dung của Phương án hòa giải của Hòa giải viên trái với quy định của pháp luật thì đương nhiên bị vô hiệu. 6.4 Nội dung hòa giải trái pháp luật đương nhiên bị vô hiệu: Bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận không biết vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của Công ty là lỗi của ông Thành. Đó là quyết định của ông Tổng Giám đốc, bà Châu chỉ là người thực hiện và không có quyền quyết định thay đổi Quyết định này”. Đại diện của Công ty và Hòa giải viên đã thừa nhận Công ty không chứng minh được lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật lao động và không phản đối các chứng cứ, tình tiết liên quan mà ông Thành đưa ra thì đương nhiên ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minhlý do của Công ty Quốc tế là vô căn cứ và trái pháp luật theo quy định tại Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, đã đủ cơ sở để Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc kết luận “Bác bỏ lý do cho ông Thành nghỉ việc vì Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành, Công ty cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải trái pháp luật là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải xin lỗi ông Thành và bồi thường cho Thành một khoản tiền theo quy định của pháp luật”. Vi phạm pháp luật nghiêm trọng, Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc cố ý đưa ra phương án hòa giải có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật. Mâu thuẫn 1: Hòa giải viên (HGV) áp đặt lý do trái Điều 32 Bộ luật lao động mâu thuẫn với lý do trái Điều 87 của Bộ luật này mà SMI áp đặt. Lý do “Ông Nguyễn Đức Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013” của SMI đương nhiên bác bỏ lý do “việc làm thử không đạt yêu cầu” của HGV. Nội dung khởi kiện 6.2 ở trên và Mâu thuẫn 5 ở dưới chứng minh lý do của HGV và SMI là các lý do vô căn cứ và trái pháp. Mâu thuẫn 2: Giả sử có thời gian thử việc thì 0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Nghề lái xe là lao động sơ cấp theo quy định tại khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Từ ngày 01 đến ngày 26 là bao nhiêu ngày và thời gian thử việc được thỏa thuận từ ngày nào đến ngày nào mà HGV tùy tiện áp đặt “ông Thành đang trong thời gian thử việc” và không bác bỏ nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” tại Quyết định số 18 của SMI? Mâu thuẫn 3: Giả sử có việc làm thử thì HGV tiến hành hòa giải không khách quan, không chính xác và trái pháp luật khi cho rằng SMI có quyền tùy tiện hủy bỏ thỏa thuận làm thử. HGV căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động mâu thuẫn với nội dung việc làm thử mà hai bên thỏa thuận không được xác định là những nội dung nào (?), ông Thành không đạt yêu cầu nào của SMI (?) hay SMI không đạt yêu cầu nào của ông Thành (?), mâu thuẫn với nội dung “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/203”, mâu thuẫn với pháp luật lao động không quy định người lao động phải thực hiện nghĩa vụ thử việc, mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành, trái với Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh HGV không có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Mâu thuẫn 4: HGV cho rằng “ông Thành không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)”. Nội dung này mâu thuẫn với bà Châu là đại diện của SMI đã thừa nhận “Không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành”, mâu thuẫn với HGV đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18”, mâu thuẫn với quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh của ông Thành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự, mâu thuẫn với thực tế là ông Thành đã chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành như HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận. Mâu thuẫn 5: HGV và SMI đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18” theo Mâu thuẫn 4 thì đương nhiên lý do của SMI và HGV là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Giả sử có thử việc thì tại thời điểm SMI cho ông Thành nghỉ việc ngày 26/5/2013 cũng đã là thời gian làm việc chính thức theo Mâu thuẫn 2. Tuy nhiên, không chứng minh được ông Thành và SMI đang thực hiện hợp đồng lao động có nội dung việc làm thử là gì (?) và thời gian thử việc là bao lâu (?) theo thỏa thuận (?) hoặc theo quy định của pháp luật (?) nhưng HGV đã tùy tiện áp đặt Điều 32 của Bộ luật lao động để giải quyết tranh chấp lao động theo ý chí chủ quan của HGV là hành vi vi cố ý thực hiện trái Điều 32 này, các khoản 2 và 3 Điều 158 của Bộ luật này và mâu thuẫn với thực tế hai bên đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận “SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật” và bác bỏ “nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) và lý do nêu trong Quyết định số 18” nhưng HGV lại đùn đẩy trách nhiệm này lên Tòa án nhân dân các cấp. 6.5 Tóm tắt nội dung bác bỏ bản án của Tòa án do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án và do cố ý áp dụng trái pháp luật: Thứ nhất, giấy ủy quyền không hợp pháp đương nhiên bác bỏ việc Tòa án thừa nhận bà Hồ Thị Bảo Châu là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm là chứng cứ chứng minh người tiến hành tố tụng đồng thời là người tham gia tố tụng với tư cách là người tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của SMI. Thứ hai, bị đơn vắng mặt tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đương nhiên bác bỏ nội dung trình bày của SMI trong Bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Nội dung khởi kiện 6.2 của ông Thành ở trên đương nhiên bác bỏ nội dung khởi kiện của Tòa án trình bày trong Bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Thứ ba, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và SMI là loại hợp đồng không xác định thời hạn và không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thời hạn hợp đồng lao động do hai bên giao kết thì đương nhiên bác bỏ nhận định của Tòa án sơ thẩm tùy tiện cho rằng không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện giao kết giữa nguyên đơn và bị đơn vào ngày 01/03/2013 là hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Thứ tư, nhắc lại nội dung khởi kiện ở trên: Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận “không chứng minh được lỗi của ông Thành” thì lý do cho ông Thành nghỉ việc trong Quyết định số 18/QĐ/2013 đương nhiên là lý do vô căn cứ và trái pháp luật đã chứng minh hành vi Tòa án không bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật đương nhiên là hành vi cố ý lạm quyền làm trái quy định tại Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS. Thứ năm, tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành càng tăng cường và củng cố vững chắc lý do cho ông Thành nghỉ việc tại Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Các bên không phản đối và cũng không chối cãi được các chứng cứ này thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận việc tiếp tay cho lý do vô căn cứ và trái pháp luật để tùy tiện giải quyết các tranh chấp của vụ án theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng và trái pháp luật mà không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành để giải quyết đúng đắn vụ việc là hành vi vi phạm tố tụng rất nghiêm trọng. Thứ sáu, Tòa án căn cứ Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động tùy tiện cho rằng ông Thành thừa nhận “Tôi vào làm thử việc” là sai sự thật và trái pháp luật vì ông Thành đã bãi bỏ nội dung nhầm lẫn này theo đúng quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự và sửa đổi là “Tôi vào làm việc”. Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hai bên không thỏa thuận về thời gian thử việc, ông Thành là nhân viên lái xe thì việc làm đương nhiên là lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh nghề lái xe là lao động sơ cấp đương nhiên bác bỏ nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP trong Bản án sơ thẩm. Giả sử có thời gian thử việc thì phải tuân thủ “0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày” theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP đương nhiên bác bỏ thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày trong Bản án phúc thẩm. Không chứng minh được thỏa thuận về thời gian thử việc thì đương nhiên thời gian thử việc theo thỏa thuận theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ là 0 ngày. Thứ bảy, không chứng minh được hai bên có thỏa thuận về thời gian thử việc và việc làm thử, không chứng minh được lỗi của ông Thành mà SMI tùy tiện áp đặt trái pháp luật tại Quyế định số 18/QĐ/2013, không chứng minh được lý do cho ông Thành nghỉ việc là có căn cứ và hợp pháp, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh Tòa án không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm đã đương nhiên bác bỏ ông Thành không đạt yêu cầu (?) thử việc mà hai bên đã thỏa thuận (?) mà Tòa án lạm quyền tùy tiện áp đặt trái pháp luật. Thứ tám, tuân thủ Điều 9 và Điều 87 là điều kiện để áp dụng Điều 32 của BLLĐ. SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 1 Điều 38 đương nhiên bác bỏ việc giải quyết tranh chấp lao động trái Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ mà Tòa án đã lạm quyền tùy tiện giải quyết theo ý chí chủ quan và trái pháp luật. Phần “Thứ ba, tranh chấp hành chính về áp dụng pháp luật” của Nội dung 6.6 ở dưới chứng minh Điều 32 của BLLĐ không phải là cơ sở để giải quyết tranh chấp lao động. Thứ chín, SMI không chứng minh được (i) lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp và (ii) đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng trình tự theo quy định của pháp luật thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp. Hai yêu cầu khởi kiện nêu ở Nội dung khởi kiện 2 ở trên đều trong phạm vi khởi kiện theo quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp lao động. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các cấp, ông Thành có quyền theo quy định tại Điều 58 và Điều 59 của BLTTDS là quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại thời điểm giải quyết vụ án. Vì vậy, (i) Tòa án sơ thẩm không chỉ ra các trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được quy định tại điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật nào mà lại tùy tiện cho rằng yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Thành thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được thể hiện trong đơn khởi kiện là không có cơ sở. (ii) Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm và bác yêu cầu kháng cáo có căn cứ và hợp pháp của ông Thành theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng là hành vi bất chấp pháp luật cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Thứ mười, không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận quyết định y án sơ thẩm theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng tại bản án phúc thẩm là trái pháp luật. Bản án phúc thẩm là bản án hội đủ các căn cứ (Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật) bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 283 và đương nhiên bị hủy theo quy định tại khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của BLTTDS. 6.6 Tóm tắt một số vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và tranh chấp hành chính: Khi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 thì Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh và Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh đương nhiên là đương sự và người làm chứng của vụ án theo quy định tại Điều 56, Điều 65 của BLTTDS. Việc Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án hai cấp tiến hành giải quyết tranh chấp lao động giữa ông Thành và SMI trái pháp luật đã làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa ông Thành và các cơ quan này. Các văn bản bị khiếu nại của các cơ quan này đều không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng các cơ quan này lại căn cứ vào chính văn bản bị khiếu nại để trả lời khiếu nại và giải quyết khiếu nại trái pháp luật. Bất chấp pháp luật, có những yêu cầu giải quyết khiếu nại không được các cơ quan này giải quyết. Tranh chấp hành chính là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự, cơ quan và người tiến hành tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án do ông Thành có khiếu nại, bao gồm: tranh chấp về (1) việc khởi kiện và thụ lý vụ án; (2) nội dung vô hiệu của hợp đồng lao động; (3) quan hệ pháp luật và phạm vi khởi kiện; (4) áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (5) thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ; (6) thay đổi người tiến hành tố tụng; (7) áp dụng pháp luật; (8) xác định tài liệu, chứng cứ dùng để giải quyết tranh chấp lao động; (9) giá trị pháp lý của văn bản ủy quyền người tham gia tố tụng; (10) các vi phạm tố tụng và vi phạm pháp luật khác. Thứ nhất, tranh chấp hành chính về việc khởi kiện: Tòa án sơ thẩm cố ý giải quyết việc khởi kiện trái với việc khởi kiện của ông Thành và mâu thuẫn với Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA ngày 30/05/2013 của chính Tòa án. Việc khởi kiện thể hiện tại đơn khởi kiện của ông Thành và Bản án phúc thẩm là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” đương nhiên (i) bác bỏ việc khởi kiện thể hiện tại Bản án sơ thẩm là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” và (ii) chứng minh Tòa án sơ thẩm đã có hành vi cố ý giải quyết việc khởi kiện trái quy định của pháp luật. Thứ hai, tranh chấp hành chính về tranh chấp lao động: Quyết định số 18/QĐ/2013 chứng minh (i) SMI và ông Thành không thỏa thuận hợp đồng thử việc và (ii) lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là tranh chấp lao động giữa hai bên đương nhiên bác bỏ tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc do Tòa án lạm quyền và tùy tiện áp đặt trái pháp luật. Thứ ba, tranh chấp hành chính về áp dụng pháp luật: - Như đã trình bày ở trên, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 của Bộ luật lao động (BLLĐ) thì đương nhiên phải thực hiện theo trình tự quy định tại Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 38, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật này. - Theo BLLĐ thì tuân thủ Điều 9 và Điều 87 là điều kiện để Điều 32 có hiệu lực: Pháp luật lao động (i) chứng minh việc áp đặt thời gian thử việc và việc làm thử là hoàn toàn trái với quy định “quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau” thì đương nhiên bị vô hiệu; (ii) quy định khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động. - Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh (i) doanh nghiệp, tòa án, cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, (ii) giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư này quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề và thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe thì đương nhiên nghề lái xe là lao động sơ cấp. - Giả sử có thời gian thử việc thì phải tuân thủ “0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày” quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Không chứng minh được thỏa thuận về thời gian thử việc thì đương nhiên thời gian thử việc theo thỏa thuận là 0 ngày. Do đó, các nội dung (i) “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013, (ii) “ông Thành đang trong thời gian thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động, (iii) “nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP” trong Bản án sơ thẩm và (iv) “thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày” trong Bản án phúc thẩm là trái pháp luật thì đương nhiên bị bác bỏ và bị vô hiệu. - Tuy nhiên, Tòa án áp dụng Điều 32 của BLLĐ và khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để giải quyết tranh chấp lao động là hành vi cố ý làm trái các quy định tại khoản 8 Điều 3 và Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT, khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP áp dụng đối với lao động sơ cấp, Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ. Nhấn mạnh, Điều 32 của BLLĐ không phải là căn cứ pháp luật để áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp lao động. - Thực tiễn chứng minh (i) miễn thử việc đối với nghề lái xe và (ii) và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành. - Như vậy, SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 1 Điều 38 đương nhiên bác bỏ việc giải quyết tranh chấp lao động trái Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ mà Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án đã lạm quyền tùy tiện giải quyết theo ý chí chủ quan và trái pháp luật. Nhắc lại, Điều 32 của BLLĐ không phải là căn cứ pháp luật để áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp lao động. - Không chứng minh được (i) lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp và (ii) SMI đã cho ông Thành nghỉ việc đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp. Bất chấp pháp luật (chi tiết xem Yêu cầu giải quyết kháng cáo của Đơn kháng cáo tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI), Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm và bác yêu cầu kháng cáo có căn cứ và hợp pháp của ông Thành theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Thứ tư, tranh chấp hành chính về chứng minh và chứng cứ: - Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Đương nhiên, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Bất chấp Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS, Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm theo lập luận không có cơ sở và ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng đồng thời là người tham gia tố tụng là 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. - Ở trên đã chứng minh nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật thì nội dung “tôi vào làm thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động đương nhiên là nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn về nhận thức pháp luật. - Nhắc lại, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và SMI là loại hợp đồng không xác định thời hạn. Theo điểm a khoản 1 Điều 27 của Bộ luật Lao động thì “Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng” và khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP thì hợp đồng lao động không xác định thời hạn áp dụng cho những (lái xe là) công việc không xác định được thời điểm kết thúc. - Hai văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013 là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI tham gia phiên hòa giải sơ thẩm ngày 18/07/2013 thì đương nhiên Bản tự khai của cá nhân bà Châu và Biên bản hòa giải sơ thẩm cùng ngày 18/07/2013 là các văn bản không có giá trị pháp lý. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không cung cấp cho ông Thành chứng cứ chứng minh bà Châu là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI thì đương nhiên bà Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI và các đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Châu không có giá trị pháp lý. - Bản án sơ thẩm và phúc thẩm là chứng cứ chứng minh Tòa án sử dụng nội dung bị vô hiệu thay vì tuyên bố vô hiệu theo khoản 4 Điều 166 của BLLĐ, sử dụng lý do vô căn cứ và trái pháp luật thay vì bác bỏ theo kết quả tranh tụng tại phiên tòa, áp dụng trái quy định của Bộ luật lao động, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT và Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để giải quyết việc khởi kiện và tranh chấp lao động trái pháp luật thay vì tuân theo Điều 197 của BLTTDS là bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà. Thứ năm, tranh chấp hành chính về tuân thủ pháp luật - Hoạt động tố tụng dân sự của những người và cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án này trái với những nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương II của BLTTDS, ngoại trừ Điều 15, khoản 1 Điều 17 và các Điều 18, 19, 20. - Vi phạm thủ tục tố tụng về thời hạn thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, giải quyết khiếu nại và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được lặp đi lặp lại ở Tòa án hai cấp nhưng Tòa án hai cấp đều trả lời trái pháp luật bằng văn bản là tuân thủ đúng thời hạn tố tụng. - Thông báo số 07/TB-TAQBTh ngày 11/04/2013 là chứng cứ chứng minh Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh cản trở ông Thành khởi kiện bằng yêu cầu trái pháp luật là yêu cầu ông Thành cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng lao động miệng. - Bốn văn ủy quyền của SMI (2 văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013, 1 văn bản ủy quyền ngày 21/11/2013, 1 văn bản ủy quyền không rõ ngày) là chứng cứ chứng minh Tòa án bất chấp pháp luật thừa nhận bà Hồ Thị Bảo Châu là đại diện theo ủy quyền của SMI. - Bản án sơ thẩm và phúc thẩm thể hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác nội dung đơn khởi kiện của ông Thành. Nghiêm trọng hơn, hai bản án thể hiện nội dung trình bày của SMI cho dù SMI vắng mặt tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Rất nghiêm trọng, không có tài liệu nào của SMI thể hiện SMI căn cứ Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT và Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để cho rằng nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Đặc biệt nghiêm trọng, những người tiến hành tố tụng đồng thời là những người tham gia tố tụng với tư cách là người tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của SMI. - Biên bản hòa giải sơ thẩm ngày 18/7/2013 là chứng cứ chứng minh: (i) Khi tuyên án, Tòa án sơ thẩm mới công bố căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để xét xử là xâm phạm quyền được biết thông tin và tranh luận của ông Thành theo các Điều 58, 59 của BLTTDS; (ii) Khi tiến hành hòa giải, Tòa án sơ thẩm cố ý không thu thập chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng về người đại diện và thực hiện trái nguyên tắc hòa giải, nội dung hòa giải, trình tự hòa giải quy định tại Điều 180, 185 và 185a và khoản 7 Điều 57, khoản 3 Điều 73, khoản 2 Điều 74, Điều 85, 86, 87, 88, 94 của BLTTDS. - Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27 tháng 06 năm 2014 và Thông báo số 49/TB-LĐTBXH ngày 11 tháng 05 năm 2016 của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không thu thập chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 29 tháng 04 năm 2014 của ông Thành. - Bản án phúc thẩm, Văn bản số 1733/TATP-TLĐ ngày 04/07/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ ngày 25/08/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh (i) Tòa án không cung cấp Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/09/2014 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, văn bản ủy quyền ngày 21/11/2013 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/03/2014 của SMI, Quyết định không thay đổi người tiến hành tố tụng ngày 12/09/2014 của Hội đồng xét xử phúc thẩm cho ông Thành; (ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm không thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành tại phiên tòa; (iii) Tòa án tùy tiện thay đổi người tiến hành tố tụng trái quy định của pháp luật tại các Điều 16, 46, 47, 49 của BLTTDS. - Văn bản số 678/ TATP-TLĐ ngày 02/04/2014, Văn bản số 1733/TATP-TLĐ ngày 04/07/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ ngày 25/08/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Văn bản số 346/TAQBTh ngày 03/06/3013, Quyết định số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013, Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh (i) lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án không thống nhất theo quy định của pháp luật và (ii) hành vi cố ý thực hiện trái pháp luật làm xâm phạm quyền của ông Thành theo quy định tại khoản 1 Điều 99, khoản 4 Điều 102, Điều 106 của BLLĐ là quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là yêu cầu SMI tạm ứng cho ông Thành một khoản tiền bồi thường để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của ông Thành hoặc bảo đảm việc thi hành án. (Chi tiết xem phần Bác bỏ các lý do không áp dụng BPKCTT tại Hồ sơ điện tử vụ án SMI - ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi). - Hai bản án phúc thẩm có nội dung khác nhau, biên bản phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm phản ánh không đúng thực tế diễn biến phiên tòa sơ thẩm ngày 04/09/2013 và phúc thẩm ngày 12/09/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ bác bỏ Văn bản số 1733/TATP-TLĐ là văn bản trả lời cuối cùng, hành vi không tiếp tục giải quyết khiếu nại và không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật là chứng cứ chứng minh yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng của ông Thành là có cơ sở. - Căn cứ việc Hội đồng xét xử phúc thẩm nhiều lần kiên quyết không xem chứng cứ bổ sung của ông Thành, không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật, không thay đổi người tiến hành tố tụng, không cung cấp các văn bản khác theo yêu cầu của ông Thành tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/09/2014 cũng đủ cơ sở chứng minh đại diện của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én không kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng và đương sự khác của vụ án. Các nội dung trình bày ở trên đương nhiên bác bỏ ý kiến của Viện kiểm sát tại Bản án phúc thẩm và Biên bản phiên tòa phúc thẩm. 6.7 Vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành: Thứ nhất, trong vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013 có hai quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp về lao động và quan hệ tranh về hành chính nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết khiếu nại tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án trong trường hợp tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tranh chấp về lao động, bất chấp pháp luật và lạm quyền, Tòa án không thu thập và không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành mà còn cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án. Thứ hai, Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là bản án chỉ căn cứ các tài liệu bất hợp pháp, tình tiết vô hiệu, thông tin sai sự thật mà không căn cứ vào kết quả tranh tụng thấu tình đạt lý của ông Thành tại phiên tòa và có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; là bản án bị sửa chữa sau khi đã tuyên án và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; là bản án được xét xử áp đặt theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, có kết luận và quyết định trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Thứ ba, việc tiến hành tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan tiến hành tố tụng và đương sự là cơ quan có thẩm quyền liên quan có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không được thực hiện theo quy định của pháp luật, không bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Thứ tư, Văn bản số 2299/TATP-VP ngày 6/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh: (i) Tòa án không chủ động phát hiện có vi phạm pháp luật trong Bản án phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 284 của BLTTDS để thông báo báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này; (ii) không bảo đảm quyền khiếu nại trong tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 24, điểm e khoản 1 Điều 40, Điều 24, điểm s Điều 58của BLTTDS và khoản 1 Điều 20, khoản 1 Điều 7, điểm k khoản 1 Điều 12 Luật khiếu nại; (iii) Tòa án chối bỏ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 13 của BLTTDS; (iv) việc trả lại Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 29/10/2014 là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại các khoản 1, 2, 4, 9 Điều 6 của Luật khiếu nại. Thứ năm, Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 03 tháng 09 năm 2015, Đơn đăng ký gặp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đến nay vẫn chưa được giải quyết và việc ngày 18/08/2015 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lời miệng là không biết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 của ông Thành đang ở đâu và ai xử lý đơn chứng minh Viện kiểm sát trốn tránh trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng tại Điều 13 của BLTTDS. 7. Các yêu cầu giải quyết khiếu nại đến nay vẫn chưa được giải quyết: 7.1 Cho ông Thành xem toàn bộ hồ sơ vụ án thụ lý số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 và sao chụp những tài liệu mà ông Thành chưa được biết và chưa được sao chụp: Hai giấy ủy quyền của Công ty, trong đó có một giấy ủy quyền ngày 25/11/2013; Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 23/08/2014 của Công ty; Quyết định không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng xét xử sơ thẩm ngày 04/09/2013; tài liệu khác (nếu có). 7.2 Trong vụ án có hai quan hệ tranh chấp. Vậy, tại sao Tòa án không giải quyết tranh chấp hành chính giữa ông Thành và các cơ quan tiến hành tố tụng trước khi giải quyết tranh chấp lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế? 7.3 Tại sao dòng 18 trang 1 của hai bản án phúc thẩm cùng số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 mà ông Thành nhận được lại có nội dung khác nhau? Việc sửa nội dung bản án sau khi đã tuyên án và ban hành bản án có vi phạm pháp luật không? Tại sao? 7.4 Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vào các ngày 26/2/2014, 28/3/2014, 23/7/2014, 12/9/2014. Vậy, bản án phải thể hiện như thế nào thì mới đúng sự thật và đúng quy định tại Điều 279 Bộ luật tố tụng dân sự? 7.5 Tại sao những người tiến hành tố tụng theo các quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2106/2014/QĐPT-LĐ ngày 07/07/2014 và số 2641/2014/QĐPT-LĐ ngày 25/08/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật? 7.6 Tại sao Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không tiến hành hòa giải theo đúng quy định? 7.7 Tại sao Tòa án bịa đặt ra Đơn khởi kiện ngày 30/5/2013 của ông Thành? Đơn khởi kiện ngày nào là đơn khởi kiện có giá trị pháp lý được ông Thành thừa nhận?Tại sao Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm thể hiện không đúng nội dung khởi kiện mà ông Thành trình bày? 7.8 Trong hồ sơ vụ án số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có 4 giấy ủy quyền là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là đại diện hợp pháp của Công ty nhưng tại sao Viện kiểm sát cho rằng (1) giấy ủy của bị đơn là hợp lệ và (2) đương sự (chung chung) vắng mặt hợp lệ? Tại sao Bị đơn vắng mặt tại các phiên tòa nhưng cả Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm đều thể hiện có nội dung của Bị đơn trình bày tại phiên tòa? Nội dung tại dòng 26-32 trang 2 của Bản án phúc thẩm có phải do Bị đơn trình bày tại Phiên tòa phúc thẩm ngày 12/9/2014 không? Văn bản nào của Bị đơn trình bày nội dung này? 7.9 Tại sao Hội đồng xét xử không cho ông Thành tranh luận tại phiên tòa (cả sơ thẩm và phúc thẩm)? 7.10 Tại sao Tòa án áp đặt trái pháp luật là “…ông Thành thừa nhận … làm thử việc lái xe”? Công ty Quốc tế không chứng minh được hai bên có thỏa thuận về thử việc thì tại sao Viện kiểm sát lại áp đặt “ông Thành đang trong thời gian thử việc”? Pháp luật có quy định người lao động và người sử dụng lao động phải thực hiện thời gian thử việc khi giao kết hợp đồng lao động không? Nếu có thì theo điều khoản nào? Nếu không thì nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định số 18 của Công ty Quốc có phải là nội dung vô hiệu không? Tại sao Tòa án không tuyên bố nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế và nội dung “làm thử việc lái xe” tại Biên bản hòa giải lao động là các nội dung bị vô hiệu? Giả sử có thỏa thuận thử việc thì thời gian thử việc không được vượt quá bao nhiêu ngày, tại sao? Hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế giao kết ngày 26/2/1013 thể hiện tại Chứng cứ 5 Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014 có nội dung thử việc bao gồm việc làm thử và thời gian thử việc không? Việc làm thử là gì và thời gian thử việc bao lâu? 7.11 Tại sao Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem chứng cứ bổ sung do ông Thành cung cấp tại Phiên tòa phúc thẩm ngày 12/9/2014? 7.12 Tại sao Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm không hỏi ông Thành có cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào không nhưng trong Biên bản phiên tòa lại ghi chép là Chủ tọa có hỏi? Tại sao Thư ký Nguyên không lập biên bản giao nhận văn bản Tranh luận phúc thẩm của ông Thành? 7.13 Tại sao Biên bản phiên tòa không thể hiện đúng diễn biến phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 211 Bộ luật tố tụng dân sự? Tại sao Tòa án không cho ông Thành ghi ý kiến và ký vào Biên bản phiên tòa ngày 12/9/2014 theo quy định tại khoản 4 Điều 211 Bộ luật tố tụng dân sự? 7.14 Tại sao Tòa án trả lời ông Thành là Bị đơn không liên hệ với Tòa án và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm? Tại sao Chủ tọa tuyên bố có 2 giấy ủy quyền của Bị đơn nhưng Bản án phúc thẩm lại chỉ thể hiện có 1 giấy ủy quyền ngày 25/11/2013? Tại sao Tòa án không cung cấp cho ông Thành các tài liệu: Giấy ủy quyền ngày 25/11/2013 của Bị đơn, Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/3/2014 của bà Hồ Thị Bảo Châu? 7.15 Tại sao Tòa án không thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 29/4/2014 của ông Thành? 7.16 Tại sao Tòa án trả lời lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong mỗi văn bản lại khác nhau theo ý chí chủ quan của người có thẩm quyền chứ không thống nhất theo quy định của pháp luật? 7.17 Tại sao Tòa án phúc thẩm không xử lý các quyết định và hành vi vi phạm tố tụng của Tòa án sơ thẩm mà ông Thành đã tố cáo trong các đơn kháng cáo, đơn khiếu nại và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án? Tại sao Thẩm phán Trần Đăng Tân gây ra 3 lỗi nêu trong Đơn khiếu nại ngày 7/7/2014 mà không bị Tòa án đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức kỷ luật cách chức chức danh thẩm phán? Tại sao những người bị khiếu nại không bị xử lý kỷ luật dưới bất cứ hình thức nào? 7.18 Công ty Quốc tế yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival thì ông Thành đi đổ xăng hay đi đổ dầu là thực hiện đúng yêu cầu của Công ty Quốc tế? Pháp luật có quy định việc đổ xăng cho xe Captival theo đúng yêu cầu của Công ty Quốc tế là lỗi của ông Thành không? 7.19 Cách phân biệt và nhận biết xe máy xăng và xe máy dầu được thể hiện ở nội dung nào và ở tài liệu đào tạo lái xe nào do cơ quan có thẩm quyền phát hành hợp pháp? Chương trình đào tạo bài bản không có nội dung nào dạy thì người học lái xe và người lái xe phân biệt xe máy xăng và xe máy dầu theo cơ sở nào? Tại sao Tòa án không xem xét trách nhiệm của cơ sở đào tạo lái xe và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu? 7.20 Xe Captival máy dầu của Công ty Quốc tế sau khi được đổ xăng vẫn chạy bình thường và ông Tổng Giám đốc có kết luận là không sao thì Tòa án dựa trên cơ sơ nào để cường điệu hóa và thổi phồng lên rằng việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm? 7.21 Ông Thành có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu thì (1) tại sao Công ty Quốc tế vẫn để ông Thành tiếp tục làm việc sau khi đổ xăng vào xe chạy dầu là ngày 6/3/2013, (2) tại sao những người liên quan, đặc biệt là người trực tiếp yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe chạy dầu không có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu, (3) tại sao đến ngày 26/3/2013 Công ty Quốc tế mới áp đặt lỗi “là tài tế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” cho một mình ông Thành? 7.22 Pháp luật không quy định ông Thành phải chịu trách nhiệm về việc đổ xăng vào xe chạy dầu thì tại sao Tòa án áp đặt việc đổ xăng vào xe chạy dầu là một trong hai lý do so với ba lý do của Công ty Quốc tế cho ông Thành nghỉ việc? 7.23 Tại sao Tòa án bỏ qua tình tiết người bán xăng có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu vì (1) tại nắp bình nhiên liệu có ghi dòng chữ Diesel và người bán xăng là người trực tiếp mở nắp bình nhiên liệu, (2) kiến thức tối thiểu người bán xăng cần phải biết là xe chạy bằng nhiên liệu gì thì phải sử dụng nhiên liệu đó và việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm? 7.24 Tại sao Tòa án bỏ qua tình tiết Công ty Quốc tế có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu vì (1) Công ty Quốc tế không bàn giao xe chạy dầu có ghi dòng chữ Diesel tại nắp bình nhiên liệu trước khi yêu cầu ông Thành đi đổ xăng, (2) kiến thức tối thiểu Công ty Quốc tế đã được biết là xe chạy bằng nhiên liệu gì thì phải sử dụng nhiên liệu đó và việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm nên Công ty Quốc tế phải bàn giao rõ ràng xe Captival là xe chạy dầu khi giao xe cho ông Thành và không được yêu cầu ông Thành đi đổ xăng vào xe chạy dầu? 7.25 Tại sao Tòa án không xem xét trách nhiệm của những người liên quanđến việc yêu cầu ông Thành đổ xăng vào xe chạy dầu và trách nhiệm của ông Tổng Giám đốcsau khi tuyên bố sự việc đổ xăng vào xe chạy dầu là không sao để xác định lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu mà Công ty Quốc tế áp đặt cho ông Thành là có căn cứ và hợp pháp không? 7.26 Tại sao Tòa án căn cứ vào Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế để áp đặt “ông Thành có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu” nhưng Tòa án không chứng minh và không kết luận lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành? 7.27 Tại sao Cơ quan hòa giải lao động đã có kết luận “Công ty Quốc tế không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành” nhưng Tòa án vẫn căn cứ vào Quyết định này để áp đặt “ông Thành làm việc không đạt yêu cầu”? 7.28 Tòa án lạm quyền không giải quyết (1) các đơn khiếu nại, (2) đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, (3) yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, (4) yêu cầu xem và giao nộp chứng cứ bổ sung tại phiên tòa, (5) yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa của ông Thành là các yêu cầu có căn cứ và hợp pháp nhưng tại sao Viện kiểm sát cho rằng “Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đảm bảo thời gian hoãn phiên tòa, đảm bảo xét xử theo đúng quy định”? 7.29 Tại trang 6 của Bản án phúc thẩm, Tòa án trích dẫn khoản 1 Điều 9 Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 07/11/2012 để làm gì? Tòa án trích dẫn khoản 2 Điều 9 của Thông tư này nhưng không xác định được Ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề hay giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo lái xe hạng B2. Vậy, Tòa án trích dẫn để làm gì? Tại sao không xác định được chứng cứ của vụ án nhưng vẫn đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm? 7.30 Ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề hay giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo lái xe hạng B2? Công việc lái xe của ông Thành tại Công ty Quốc tế là công việc có chức danh nghề cần trình độ trung cấp, hay công nhân kỹ thuật, hay nhân viên nghiệp vụ, hay ba trong một? 7.31 Chất lượng của công việc gồm những tiêu chí nào? Ông Thành đã không đảm bảo chất lượng công việc như thế nào? Tại sao? Văn bản pháp luật nào quy định về tiêu chí đánh giá chất lượng công việc và tính trung thực? Chứng cứ nào chứng minh ông Thành không đảm bảo tính trung thực khi làm việc? Thông tin giá mà ông Thành nhận được là 5.900.000 đồng, nếu ông Thành truyền đạt sai thông tin báo giá là 3.250.000 đồng thì (1) Tòa án có trả tiền chênh lệch cho người bán không và (2) có đảm bảo tính trung thực khi làm việc không? Tại dòng 6 Bản án phúc thẩm cho rằng “Nếu giao cho ông Thành việc mua lốp xe thì việc này sẽ gây thiệt hại cho công ty”, cụ thể là thiệt hại gì, tại sao, Hội đồng xét xử áp đặt theo ý chí chủ quan của mình hay theo tài liệu nào của Công ty? Tòa án dựa trên cơ sở nào để xác định giá thị trường: Giá theo xuất xứ hàng hóa, hay giá theo giá của nhà bán lẻ, hay giá theo giá của nhà phân phối, hay giá theo giá của hãng xe, hay giá theo giá của người sửa chữa xe, hay giá theo bảng giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, hay giá theo tiêu chuẩn nào khác? Tại sao Tòa án cố ý bỏ qua tình tiết các nhân chứng đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ Công ty Ôtô GM Việt Nam đến Công ty Quốc Tế? Tại sao Tòa án không yêu cầu Công ty Quốc tế chứng minh “việc truyền đạt đúng thông tin báo giá là ông Thành có lỗi báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông (?) đã mua (việc truyền đạt đúng thông tin báo giá mua lốp xe Dunlop là lỗi của ông Thành)”? 7.32 Công ty Quốc tế áp đặt 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của mình là lỗi của ông Thành nhưng tại sao Viện kiểm sát lại tùy tiện bớt xuống còn 2 lỗi? Công ty Quốc tế không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của mình là lỗi của ông Thành thì tại sao (1) việc Công ty Quốc tế cho ông Thành nghỉ việc là đúng và (2) ông Thành có lỗi khi đổ xăng vào xe chạy dầu, báo giá lốp xe cao? Tại sao Viện kiểm sát cố ý phớt lờ và không xem xét các tài liệu, chứng cứ của ông Thành chứng minh (1) 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế không phải là lỗi của ông Thành và (2) hai bên không có thỏa thuận về thử việc và (3) nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” thể hiện trong Quyết định số 18 và nội dung “làm thử việc lái xe” thể hiện trong Biên bản hòa giải lao động là các nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật? Tại sao Tòa án bỏ qua các tình tiết, chứng cứ ông Thành trình bày. 7.33 Lý do tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế áp đặt cho ông Thành là (1) không đạt yêu cầu, hay (2) làm việc không đạt yêu cầu, hay (3) việc làm thử không đạt yêu cầu, hay (4) việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận, hay (5) không đạt yêu cầu thử việc, hay (6) ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này? 7.34 Tại sao Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013 của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế đưa ra lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải là ông Thành gây ra 3 lỗi nhưng Bản án phúc thẩm lại tùy tiện giảm xuống còn 2 lỗi và cũng không thể hiện đúng, đủ và chính xác nội dung 2 lỗi đó? 7.35 Căn cứ tài liệu, chứng cứ nào của Công ty Quốc tế chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành? Công ty Quốc tế không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành thì lý do nêu trong Quyết định này có phải là lý do có căn cứ và hợp pháp không? Công ty Quốc tế áp đặt lý do không có căn cứ và hợp pháp để đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải trái pháp luật là đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật hay trái luật? Tại sao Viện kiểm sát cho rằng Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 4/9/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử là có căn cứ? 7.36 Căn cứ Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế và Bản án lao động phúc thẩm số 1186 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thì ông Thành (1) có quyền lái xe tham gia giao thông theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ và (2) có đạt yêu cầu hành nghề lái xe theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT? Tại sao? 8. Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 4/9/2014 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là các bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và có kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. 9. Việc tiến hành tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan có thẩm quyền có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không được thực hiện theo quy định của pháp luật, không bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời, làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. XÉT THẤY Từ những phân tích, đánh giá trên, ông Thành xét thấy có đủ và thừa căn cứ để đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12 tháng 09 năm 2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. KẾT LUẬN 1. Kiểm sát viên Võ Chí Thiện không hiểu biết pháp luật, không hiểu biết thực tiễn về nghề lái xe và đào tạo lái xe, hoặc cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án, cố ý nói sai sự thật, cố ý ký vào Thông báo số 810 có những nội dung trái pháp luật. 2. Là Kiểm sát viên tiến hành tố tụng dân sự và xét xử vụ án lao động số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013 nhưng Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én đã không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 6 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không kiểm sát việc giải quyết các vụ án lao động và những việc khác (khiếu nại, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thay đổi người tiến hành tố tụng, thụ lý vụ án, xét xử tại phiên tòa…) theo quy định tại khoản 4 Điều 3, Điều 6, Điều 11, khoản 7 Điều 21 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; không thực hiện nhiệm vụ theo, công vụ theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Luật khiếu nại. 3. Là Kiểm sát viên giải quyết khiếu nại nhưng Kiểm sát viên Nguyễn Thị Bích Phượng lại tùy tiện ký vào Văn bản số 412/VKS-P7 ngày 30/10/2014 về việc trả lại đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Nhưng không biết mình là người bị khiếu nại; Bà Phượng yêu cầu ông Thành viết quá nhiều đơn so với quy định của pháp luật (Bà Phượng yêu cầu viết đơn khiếu nại Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én, đơn đề nghị xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, đơn khiếu nại bản án theo ý chí chủ quan của bà Phượng; ông Thành chỉ viết một đơn khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật). Là người bị khiếu nại, Kiểm sát viên Nguyễn Thị Bích Phượng không phải là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng cố ý giải quyết khiếu nại trái pháp luật. 4. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết đơn đăng ký gặp Viện trưởng của ông Thành chứng minh Viện kiểm sát không tôn trọng ông Thành là hành vi cố ý thực hiện trái quy định của pháp luật làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. IV. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI 1. Bãi bỏ Thông báo số 810 do có những nội dung trái pháp luật như đã trình bày ở trên. Căn cứ các điều 325, 326, 327 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Viện trưởng kháng nghị hoặc Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm. 2. Tại sao Thông báo số 810 thể hiện tranh chấp lao động giữa ông Nguyễn Đức Thành và Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế là “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” trái với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12 tháng 09 năm 2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh thể hiện là “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”? 3. Tại sao Thông báo số 810, bản án sơ thẩm và phúc thẩm, biên bản phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm lại tùy tiện thể hiện lời trình bày của ông Thành trái với nội dung Đơn khởi kiện ngày 04 tháng 09 năm 2013 và lời trình bày của ông Thành tại phiên tòa? 4. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề, công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ? Nội dung nào của tài liệu đào tạo lái xe mà ông Thành đã được học thể hiện ông Thành đã được học chuyên môn, kỹ thuật hay nghiệp vụ đổ xăng và đổ xăng cho xe máy dầu là lỗi của ai? Thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe thì nghề lái xe là lao động sơ cấp hay chức danh nghề cần trình độ từ trung cấp trở lên? 5. Tại sao Thông báo số 810 không thể hiện công việc lái xe Everest và Captival của Công ty là nhân viên lái xe có chức danh nghề cần trình độ từ trung cấp, công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ nhưng lại tùy tiện cho rằng thời gian thử việc đối với ông Thành là không quá 30 ngày? 6. Hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng là hợp đồng lao động không xác định thời hạn hay hợp đồng thử việc có thời hạn không quá 30 ngày? Tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thời hạn, thời điểm mà hai bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của hợp đồng? Tại sao? 7. Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và Công ty là loại hợp đồng không xác định thời hạn và hai bên không thỏa thuận về thử việc. Vậy, tại sao Thông báo số 810 lại tùy tiện áp đặt và cố ý áp đặt trái Điều 32 Bộ luật lao động? 8. Giả sử có thời gian thử việc thì thời gian thử việc áp dụng đối với lao động sơ cấp là nhân viên lái xe không được quá bao nhiêu ngày quy định tại Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP? Hai bên không thỏa thuận thời gian thử việc thì thời gian thử việc theo thỏa thuận là bao nhiêu ngày? Từ ngày 01/03/2013 đến ngày 26/03/2013 là bao nhiêu ngày và Công ty có vi phạm thời gian thử việc không? Ngày làm việc chính thức của ông Thành là ngày nào? 9. Giả sử có thỏa thuận về việc làm thử thì việc làm thử là những nội dung nào? Công ty chứng minh được ông Thành gây ra những lỗi gì, không đạt yêu cầu những nội dung thỏa thuận nào? Thông báo số 810 thể hiện công việc chính là lái xe nhưng lại tùy tiện cho rằng ông Thành gây ra lỗi gì và không đạt yêu cầu lái xe như thế nào? 10. Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” của Quyết định số 18/QĐ/2013 là “chưa hết thời gian thử việc theo thỏa thuận” hay “chưa hết thời gian thử việc theo quy định”? Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” có phải là nội dung bị vô hiệu không? Các nội dung về thử việc phát sinh theo nội dung này có bị vô hiệu không? Tại sao? 11. Ông Thành là Giám đốc Cty TNHH MTV Thương hiệu Vận tải Ba Thành cung cấp dịch vụ cho thuê tài xế. Vậy, thời gian thử việc của dịch vụ này là bao lâu và việc làm thử là gì? Khách hàng thuê ông Thành lái xe trong thời gian 26 ngày từ thứ hai đến thứ bảy trong giờ hành chính thì khách hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ gì theo Quy định thuê lái xe của Cty Ba Thành tại địa chỉ BaThanh.net, việc làm thử là gì và thời gian thử việc là bao lâu trong trường hợp này? Tại sao? 12. Ông Thành có quyền lái và có lái đúng loại xe ghi trong giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp trong thời gian làm việc tại Công ty không? Tại sao? 13. Tại sao ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực? 14. Công ty, Phòng lao động, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe? Tại sao? 15. Ông Thành không đạt yêu cầu công việc lái xe Everest và Captival của Công ty trong những trường hợp nào? Tại sao? 16. Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc không gọi điện thoại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival theo yêu cầu của ông Thành thì tình tiết, chứng cứ này có phải là “đương nhiên Hòa giải viên đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá và lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá; 3.520.000 đồng)” không phải là lỗi của ông Thành không”? Văn bản có xác nhận của các nhân chứng Vũ Thị Phương, Đoàn Văn Túy và Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam Chi nhánh Hồ Chí Minh có phải là chứng cứ chứng minh việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến Công ty và đại diện của Công ty cố ý nói sai sự thật không? Tại sao? 17. Người bán nhiên liệu (xăng hoặc dầu) mở nắp bình nhiên liệu và đổ nhiên liệu vào bình nhiên liệu có phải là tình tiết công khai mà mọi người đều biết và là tình tiết không phải chứng minh không? Bà Châu thừa nhận với Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival” và nói “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng nhưng là tài xế thì ông Thành phải biết đi đổ dầu. Nếu sai làm việc gì làm đúng việc đó thì thiếu gì tài xế, thuê ông Thành làm gì” có phải là tình tiết, chứng cứ chứng minh lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” không phải là lỗi của ông Thành không? Công ty yêu cầu ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng thì ông Thành yêu cầu người bán nhiên liệu đổ xăng hay dầu là thực hiện đúng yêu cầu của Công ty? Tại thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng vào xe Captival máy dầu ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, Tổng giám đốc Công ty đã có kết luận sự việc không sao (đúng với thực tế là sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, xe Captival vẫn chạy bình thường), không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan thì ai là người phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao? Tại sao? 18. Việc ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng theo yêu cầu của Công ty và việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến Công ty có phải là lỗi của ông Thành không, tại sao? Công việc lái xe có phải là việc nhận lỗi không, tại sao? Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh ông Thành là nhân viên lái xe, công nhân nhận lỗi, nhân viên nghiệp vụ nhận lỗi hay chức danh nghề nhận lỗi cần trình độ từ trung cấp? Điều khoản của văn bản pháp luật nào quy định “người lao động làm đúng việc làm đã thỏa thuận với người sử dụng lao động là lỗi” để xác định lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” là lỗi của ông Thành? 19. Quyết định số 18/QĐ/2013 và Biên bản hòa giải lao động ngày 24/04/2013 có phải là chứng cứ chứng minh Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành và lý do nêu trong Quyết định này là lý do vô căn cứ và trái pháp luật không? Tại sao? 20. Công ty có phải chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành và lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này là lý do có căn cứ và hợp pháp không? Công ty không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành thì lý do ông Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này có phải là lý do có căn cứ và hợp pháp và ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi không? Tại sao? 21. Nội dung nào của Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và tài liệu, chứng cứ nào của hồ sơ vụ án thể hiện Công ty đã chứng minh được và Tòa án đã yêu cầu Công ty chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành và lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này là lý do có căn cứ và hợp pháp? Quyết định này có phải là chứng cứ chứng minh lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này là lý do có căn cứ và hợp pháp không? Tại sao? 22. Bà Hồ Thị Bảo Châu có biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành không? Hai văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013 có phải là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của Công ty tham gia phiên hòa giải sơ thẩm ngày 18/07/2013 không? Do đó, Bản tự khai của cá nhân bà Châu và Biên bản hòa giải sơ thẩm cùng ngày 18/07/2013 đương nhiên không phải là các văn bản có giá trị pháp lý, đúng không? Các cơ quan tiến hành tố tụng không cung cấp giấy ủy quyền, đơn vắng mặt, tài lại khác của Công ty cho ông Thành có phải là hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không? Tại sao? 23. Bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận với Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là “không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành” thì lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu trong Quyết định này có phải là lý do vô căn cứ và trái pháp luật không? Ai là người chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành? Tại sao? 24. Sử dụng lý do vô căn cứ và trái pháp luật để tùy tiện sa thải người lao động thì là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như đã trình bày ở trên không? Tại sao? 25. Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành thì Công ty có phải bồi thường theo yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của ông Thành không? Công ty tùy tiện áp đặt trái pháp luật lỗi cho ông Thành thì Công ty có phải xin lỗi ông Thành theo yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của ông Thành không? Tại sao? 26. Tại sao Thông báo số 810 căn cứ “Do Công ty cho rằng ông gây ra lỗi, không đạt yêu cầu” để tiếp tay cho lý do vô căn cứ và hành vi sa thải người lao động trái pháp luật của Công ty? Vậy, ông Thành cho rằng Kiểm sát viên Võ Chí Thiện đã nhận tiền hối lộ chạy án của Công ty để ra Thông báo số 810 có nội dung trái pháp luật thì Kiểm sát viên Võ Chí Thiện có bị sa thải vì tội lợi chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân và cố ý làm trái quy định của pháp luật không? 27. Chỉ căn cứ việc “Do Công ty cho rằng ông gây ra lỗi, không đạt yêu cầu” để tiếp tay cho lý do vô căn cứ và hành vi sa thải người lao động trái pháp luật của Công ty mà không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành để bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty. Mối quan hệ than thiết của những người tiến hành tố tụng. Những tình tiết, chứng cứ này có chứng minh được kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án? Tại sao? 28. Tại phiên tòa lao động phúc thẩm ngày 12/09/2014, Hội đồng xét xử không thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành mâu thuẫn với Tòa án đã nhiều lần thay đổi người tiến hành tố tụng mà không rõ lý do, không cung cấp được quyết định không thay đổi người tiến hành tố tụng và không cung cấp được đơn vắng mặt và giấy ủy quyền người đại diện của Công ty cho ông Thành, không nhận và không xem tài liệu, chứng cứ của ông Thành yêu cầu giao nộp bổ sung không cho ông Thành trình bày tranh luận, chưa được phép của Chủ tọa phiên tòa nhưng Thẩm phán Nguyễn Văn Xuân liên tục không cho ông Thành tranh luận; Biên bản phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm thể hiện không đúng nội dung phiên tòa; Bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của Công ty; Công ty vắng mặt tại các phiên tòa nhưng cả Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm đều thể hiện có nội dung của Công ty trình bày tại phiên tòa; Cố ý làm sai lệch thông tin vụ án về việc khởi kiện và tranh chấp lao động; Cơ quan ban hành văn bản cố ý sử dụng văn bản có nội dung trái pháp luật của chính cơ quan ban hành văn bản để giải quyết vụ án trái pháp luật; Bản án không căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hai bản án phúc thẩm có nội dung khác nhau; Vụ án có hai quan hệ tranh chấp nhưng chỉ giải quyết một tranh chấp; Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én không kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Những tình tiết, chứng cứ này có chứng minh được có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng không? Tại sao? 29. Thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh nghề lái xe là lao động sơ cấp đương nhiên bác bỏ nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Điều 32 Bộ luật lao động không phải là căn cứ để đơn phương chấm hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Không chứng minh được lỗi của ông Thành thì lý do vô căn cứ và trái Điều 87 Bộ luật lao động đương nhiên bị bác bỏ. Không bác bỏ nội bị vô hiệu là cố ý thực hiện trái Khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động. Những tình tiết, chứng cứ này có chứng minh được cố ý có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật không? Tại sao? 30. Tòa án và Viện kiểm sát không thu thập tài liệu, chứng cứ (Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27 tháng 06 năm 2014 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh Tòa án cố ý không thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo vụ án được giải quyết đúng pháp luật); không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật; không giải quyết khiếu nại; không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật; không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành có phải là những tình tiết, chứng cứ vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án không? Tại sao? 31. Hai giấy ủy quyền cùng ngày 02/07/2013 của Công ty chứng minh Tòa án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như thế nào? Trong hồ sơ vụ án thể hiện có 4 hay 3 giấy ủy quyền của Công ty và những giấy ủy quyền nào bị vô hiệu? Mấy người được ủy quyền tham gia tố tụng và là những ai? 32. Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc có phải là người làm chứng và người có nghĩa vụ liên quan phải xác nhận những nội dung chưa được thể hiện trong biên bản hòa giải ngày 24/04/2013 và giải thích về những mâu thuẫn trong phương án hòa giải do ông Thành yêu cầu? 33. Tại sao Thẩm phán Trần Đăng Tân không giải thích về các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của ông Tân do ông Thành có đơn ngày 16/04/2014 yêu cầu Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh cung cấp tài liệu, chứng cứ? 34. Tại sao ông Thành không được đối chất về việc Thư ký Đoàn Quốc Dũng, Thư ký Phạm Thị Nguyên và Thư ký Trần Thị Hiển lập biên bản phiên tòa không đúng với diễn biến thực tế của phiên tòa? Tại sao tòa án từ chối cung cấp biên bản phiên tòa cho ông Thành? 35. Tại sao Tòa án, Viện kiểm sát không thực hiện đối chất giữa ông Thành với Công ty, giữa ông Thành với người bán xăng, giữa ông Thành với người báo giá lốp xe Captival? 36. Tại sao ông Thành không được cung cấp tài liệu, chứng cứ và không giao nộp được tài liệu, chứng cứ bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/09/2014? Tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành tại phiên tòa này là những gì? Tại sao những người tiến hành tố tụng không xem tài liệu, chứng cứ bổ sung và không cho ông Thành tranh luận tại phiên tòa này? Tại sao những người tiến hành tố tụng không cho ông Thành xem tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án mà ông Thành chưa được biết? 37. Lý do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông Thành có căn cứ và hợp không? Lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án hai cấp có phải là lý do vô căn cứ và trái pháp luật không? Tại sao? 38. Tại sao Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lời là không còn tài liệu, chứng cứ từ nguồn khác nhưng ông Thành vẫn thu thập được Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27 tháng 06 năm 2014 của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh? 39. Tại sao Tòa án không thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành nhưng lại tùy tiện thay thẩm phán theo ý chí chủ quan và trái pháp luật? 40. Căn cứ Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì các tài liệu, chứng cứ tại địa chỉ ThuongHieuDoanhNghiep.vn/smi có giá trị pháp lý như thế nào? Tại sao Viện kiểm sát không sử dụng tài liệu, chứng cứ của vụ án được ông Thành công bố và thường xuyên bổ sung tình tiết, chứng cứ mới làm thay đổi tính chất, nội dung vụ kiện tại địa chỉ website này để giải quyết vụ việc? 41. Tòa án không cho ông Thành ký vào biên bản phiên tòa có phải là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng không? Tại sao? 42. Tại sao Quý Viện nhiều lần từ chối yêu cầu của ông Thành về việc gặp Kiểm sát viên để tìm hiểu và phối hợp giải quyết vụ việc đúng quy định của pháp luật? 43. Cung cấp cho ông Thành giấy ủy quyền ngày 25/11/2013 và giấy ủy quyền không rõ ngày của Công ty; Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/03/2014 của bà Hồ Thị Bảo Châu; Biên bản phiên tòa phúc thẩm các ngày 26/02/2014, 28/03/2014, 23/07/2014, 12/09/2014 và các quyết định phân công, thay đổi Thẩm phán, Thư ký của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản nghị quyết không áp dụng BPKCTT ngày 04/09/2013 của Hội đồng xét xử sơ thẩm; văn bản trả lời của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh về yêu cung cấp tài liệu, chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 16/04/2014 của ông Thành; Quyết định phân công Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én tham gia tiến hành tố tụng vụ án lao động số 91/2013/LĐPT; văn bản trả lời của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh về yêu cung cấp tài liệu, chứng cứ theo Đơn khiếu nại ngày 10/10/2015 của ông Thành. 44. Cho ông Thành xem lại toàn bộ hồ sơ vụ án lao động số số 91/2013/LĐPT ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và trả lời ông Thành Quyết định phân công thẩm phán số 56/QĐ-PCTP-LĐ ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh có trái pháp luật không, tại sao? 45. Yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết khiếu nại các Đơn khiếu nại ngày 07/07/2014 đã được sửa đổi, bổ sung theo Đơn khiếu nại các ngày 18/07/2014, 03/09/2014, 29/10/2014 của ông Thành theo đúng quy định của pháp luật. Lưu ý: Ông Thành đã khiếu nại Văn bản trả lại Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 số 2299/TATP-VP ngày 06/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tới Tòa án nhân dân tối cao ngày 17/11/2014. 46. Kiểm tra và giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, cá nhân bị khiếu nại trên trong việc tiếp nhận và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo ngày 29/10/2014 của ông Thành. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật cách chức Kiểm sát viên đối với bà Nguyễn Thị Thúy Phượng, bà Nguyễn Thị Én và Kiểm sát viên Võ Chí Thiện. Tại sao Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết đơn đăng ký gặp Viện trưởng Viện này của ông Thành? 47. Trong vụ án lao động này có mấy quan hệ tranh chấp, là những tranh chấp nào? Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp đó chưa và đã giải quyết đúng pháp luật chưa? Tại sao các yêu cầu giải quyết khiếu nại trình bày ở Nội dung khiếu nại 7 trên đến nay vẫn chưa được giải quyết? 48. Yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của ông Thành có vượt quá phạm vi khởi kiện của quan hệ lao động và tranh chấp lao động không? Tại sao? 49. Tính chất của giám đốc thẩm quy định tại Điều 325 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là gì? Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 326 Bộ luật này là gì? Nội dung ông Thành đã trình bày trong Đơn đề nghị xem xét kháng khị giám đốc thẩm ngày 17 tháng 12 năm 2014 và Đơn khiếu nại này có thể hiện tính tính chất của giám đốc thẩm và căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12 tháng 09 năm 2014 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh về việc “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” không, tại sao? 50. Quý viện hay Kiểm sát viên Võ Chí Thiện đã nghiên cứu hồ sơ vụ án do ông Thành cung cấp, do Tòa án cung cấp hay do Quý viện, Kiểm sát viên Võ Chí Thiện thu thập từ nguồn khác? Hồ sơ vụ án có thể hiện ông Thành vẫn còn tài liệu, chứng cứ không giao nộp được cho Tòa án do Hội đồng xét xử không nhận và không xem? Hồ sơ vụ án có thể hiện vẫn còn tài liệu, chứng cứ mà Tòa án và Hội đồng xét xử không cho ông Thành xem và không cung cấp cho ông Thành? Quý viện có nghĩa vụ cung cấp cho anh Thành các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án mà ông Thành chưa có và chưa biết do Tòa án và Hội đồng xét xử không cung cấp cho ông Thành không? Quý viện đã thu thập tài liệu, chứng cứ từ nguồn khác theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành chưa? Viện trưởng có cần xem tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành không? Tại sao? 51. Có phải Kiểm sát viên Võ Chí Thiện nhắm mắt ký bừa vào Thông báo số 810 theo thói quen mà không thèm đọc hồ sơ vụ án? 52. Quý Viện giải quyết đầy đủ, chính xác, kịp thời các yêu cầu giải quyết khiếu nại trên theo đúng quy định của pháp luật. Chúc Viện trưởng và những kiểm sát viên vì Dân, vì Nước, vì sự trong sạch và vững mạnh của Đảng của Quý Viện sức khỏe, trí tuệ, bản lĩnh, thượng tôn pháp luật, chí công vô tư, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào! Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động. Tuy nhiên, Thông báo số 810 ở dưới và Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không thể hiện nội dung, tài liệu, chứng cứ chứng minh: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (Người sử dụng lao động) chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định cho thôi việc số 18 ngày 26 tháng 03 năm 2013 là lỗi của Người lao động.
M454 | ||||||
|