HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

Đơn đề nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm

Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là bản án chỉ căn cứ vào những phân tích chủ quan, đánh giá tùy tiện, nhận định vô căn cứ và trái pháp luật của những người tiến hành tố tụng về các tình tiết của vụ án mà không tôn trọng sự thật khách quan và không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ, kết quả tranh tụng (tranh luận thấu tình, đạt lý) của ông Thành tại phiên tòa; là bản án trình bày sai, thiếu, không chính xác nội dung đơn khởi kiện và không trình bày nội dung tranh luận của ông Thành; là bản án có phần trình bày của Bị đơn mâu thuẫn với sự thật là Bị đơn không tham gia tố tụng; là bản án bị sửa chữa sau khi đã tuyên án và ra bản án; là bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; là bản án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; là bản án có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật (máy móc, hình thức, tùy tiện và xa rời thực tiễn), có kết luận và quyết định trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, có căn cứ (theo quy định tại Điều 326, các khoản 1-3 Điều 352 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Đơn khởi kiện

Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”. Tranh chấp lao động là “Lý do Công ty Quốc tế cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”. (Nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật là tranh chấp (?) phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án?).
- Ngày 26/02/2013, Ông Nguyễn Đức Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) đã cùng nhau giao kết hợp đồng lao động theo hình thức hợp đồng miệng và loại hợp đồng không xác định thời hạn.
- Ngày 26/03/2013, SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013.
- Yêu cầu khởi kiện: Thứ nhất, SMI phải hủy Quyết định số 18//QĐ/2013 và ban hành quyết định công khai xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc ký; Thứ hai, SMI bồi thường một khoản tiền cho ông Thành theo đúng quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
- Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh: Quan hệ lao động giữa ông Thành và SMI được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động miệng được thực hiện từ ngày 01/03/2013; Việc làm là lái xe; Thời gian kết thúc hợp đồng lao động theo thỏa thuận là không xác định; Nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật; Lý do để SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp theo Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động và tài liệu, chứng cứ khác của ông Thành đã giao nộp cho Tòa án sơ thẩm.
- Quyết định trên được giao nộp cho Tòa án sơ thẩm ngay khi ông Thành nộp đơn khởi kiện. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm ông Thành đã giao nộp bổ sung cho Tòa án sơ thẩm nhiều tài liệu, chứng cứ khác.

Đơn kháng cáo

Kháng cáo Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh. Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”.
- Thứ nhất, Tòa án sơ thẩm cố ý giải quyết việc khởi kiện trái với việc khởi kiện của Nguyên đơn và mâu thuẫn với Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA ngày 30/05/2013 của chính Tòa án.
- Thứ hai, Quyết định số 18/QĐ/2013 chứng minh SMI và ông Thành không thỏa thuận hợp đồng thử việc. Lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là tranh chấp lao động giữa hai bên. Bất chấp sự thật và khiếu nại của ông Thành, Tòa án sơ thẩm áp đặt tranh chấp lao động là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc. Bản án sơ thẩm, Văn bản trả lời không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh Tòa án sơ thẩm áp đặt hợp đồng thử việc để giải quyết vụ án theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng.
- Thứ ba, Biên bản hòa giải lao động chứng minh SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Ngược lại, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Bất chấp pháp luật, Tòa án sơ thẩm vẫn tuyên án theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng là 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành.
- Thứ tư, SMI áp đặt lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 để đơn phương chấp dứt hợp đồng lao động với ông Thành. Lạm quyền và tùy tiện, Tòa án sơ thẩm áp đặt lý do là ông Thành không đạt yêu cầu (?, việc làm thử mà hai bên đã thỏa thuận?)... nhằm đánh lạc hướng giải quyết vụ án? Không dừng lại ở sự khác biệt hoàn toàn với lý do của SMI. Lý do của Tòa án sơ thẩm còn thể hiện sự mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh nghề lái xe là miễn thử việc và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm có hiệu lực; Thông tư 46/2012/TT-BGTVT chứng minh doanh nghiệp, tòa án, cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe là người không đạt yêu cầu lái xe, Thông tư này cũng chứng minh giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe; Pháp luật lao động chứng minh việc áp đặt thời gian thử việc và việc làm thử là hoàn toàn trái với quy định “quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau” và đương nhiên bị vô hiệu; Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh SMI không chứng minh được lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp.
- Thứ năm, trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ông Thành phát hiện và bổ sung đơn khởi kiện về nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” của Quyết định số 18/QĐ/2013 và nội dung “làm thử việc” của Biên bản hòa giải lao động là các nội dung vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật. Phớt lờ yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành, Tòa án sơ thẩm không tuyên bố nội dung vô hiệu là cố ý thực hiện trái quy định của pháp luật.
- Thứ sáu, khi tuyên án, Tòa án sơ thẩm mới công bố căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để xét xử là xâm phạm quyền được biết thông tin và tranh luận của ông Thành. Khoản 2 Điều 9 của Thông tư này quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề và ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe. Mặc dù trích dẫn Điều 9 của Thông tư này nhưng Tòa án sơ thẩm lại xuyên tạc rằng nghề lái xe phải qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ nên thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP (?!). Không có tài liệu, chứng nào của SMI thể hiện SMI áp dụng Thông tư và Nghị đình này chứng minh Tòa án sơ thẩm không vô tư khi tiến hành tố tụng và bịa đặt ra nội dung trình bày của SMI thể hiện trong Bản án sơ Thẩm.
- Thứ bảy, Bản án sơ thẩm thể hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác nội dung đơn khởi kiện của Nguyên đơn. Mặt khác, Bản án sơ thẩm thể hiện nội dung trình bày của Bị đơn cho dù Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.
- Thứ tám, Giấy ủy quyền của SMI không hợp lệ. Tòa án sơ thẩm tiến hành hòa giải không đúng quy định tố tụng. Biên bản hòa giải của Cơ quan hòa giải lao động đề nghị ông Thành khởi kiện để Tòa án giải quyết theo thẩm quyền nhưng Tòa án đã từ chối cung cấp thông tin, tài liệu mà SMI đã cung cấp cho Tòa án và từ chối yêu cầu thu thập chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành tại phiên hòa giải. Ông Thành chỉ biết Tòa án sơ thẩm căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để giải quyết vụ án khi Tòa án tuyên án sơ thẩm chứng minh Tòa án không phổ biến cho ông Thành biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án như thể hiện tại Biên bản hòa giải ngày 18/07/2013. Do đó, các tài liệu của bà Châu và Tòa án sơ thẩm ban hành ngày 18/07/2013 là các tài liệu không hợp pháp. Tòa án sơ thẩm không chứng minh được bà Châu là đại diện theo ủy quyền của SMI tại phiên tòa sơ thẩm thì đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Châu đương nhiên là không hợp pháp.
- Thứ chín, ông Thành chỉ có hai yêu cầu khởi kiện là (1) yêu cầu SMI hủy bỏ Quyết định số 18/QĐ/2013 và ban hành quyết định công khai xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc ký và (2) yêu cầu SMI bồi thường một khoản tiền theo đúng quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Cả hai yêu cầu này đều thuộc phạm vi khởi kiện theo quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Thành có quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại thời điểm giải quyết vụ án. Tòa án sơ thẩm không chỉ ra các trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được quy định tại điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật nào mà lại tùy tiện cho rằng yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Thành thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được thể hiện trong đơn khởi kiện là không có cơ sở.
- Thứ mười, Bản án sơ thẩm không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành. Nghiêm trọng hơn, Tòa án sơ thẩm chỉ căn cứ vào tài liệu bất hợp pháp của cá nhân bà Châu và tài liệu có nội dung vô hiệu để tuyên án và ban hành bản án trái pháp luật. Rất nghiêm trọng, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động nhưng Tòa án sơ thẩm lại tùy tiện cho rằng không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh hợp đồng lao động có thời hạn 3 tháng rồi lại không xác định thời hạn. Đặc biệt nghiêm trọng, bất chấp Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA, Tòa án trả lời khiếu nại sai sự thật rằng ông Thành không nộp chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
- Thứ mười một, nhiều vi phạm tố tụng nghiêm trọng khác.

Tranh luận giám đốc thẩm

Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là “tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan” trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013. Do đó, quyết định y án sơ thẩm đương nhiên là hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong quá trình xét xử và ra Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014.

Tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan

Sai phạm của Thẩm phán Trần Đăng Tân (nguyên là Phó Chánh án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, hiện nay là Chánh án Tòa án nhân dân quận Gò Vấp) thể hiện theo Công văn số 4545/GBT-VPTU ngày 24/04/2017 của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh là hành vi tùy tiện áp dụng pháp luật và không tôn trọng sự thật khách quan trong quá trình xét xử và ra Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04 tháng 09 năm 2013.

Đơn khiếu nại

Quyết định và hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền; Vi phạm thời hạn thụ lý và chuẩn bị xét xử; Không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Vi phạm thời hạn giải quyết khiếu nại; Vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên tòa; Không thu thập và không cung cấp tài liệu, chứng cứ; Hành vi trả lại đơn khiếu nại; ...

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa đương nhiên đã bác bỏ nội dung trình bày của Công ty Quốc tế tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Đơn khởi kiệnđơn kháng cáo của ông Thành đương nhiên bác bỏ nội dung trình bày của ông Thành tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Tòa án căn cứ Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động tùy tiện cho rằng ông Thành thừa nhận “Tôi vào làm thử việc” là sai sự thật và trái pháp luật vì ông Thành đã bãi bỏ nội dung nhầm lẫn này theo đúng quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự và sửa đổi là “Tôi vào làm việc”. Biên bản này là chứng cứ chứng minh Hòa giải viên lao động và đại diện của Công ty Quốc tế đã thừa nhậnkhông chứng minh được lỗi của ông Thành” thì đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc là vô căn cứ và trái pháp luật nhưng Tòa án không bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật tại Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI là hành vi cố ý lạm quyền làm trái pháp luật.

Tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành càng tăng cường và củng cố vững chắc lý do cho ông Thành nghỉ việc tại Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Các bên không phản đối và cũng không tranh cãi ngược lại để bác bỏ các chứng cứ này thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận việc tiếp tay cho lý do vô căn cứ và trái pháp luật để tùy tiện giải quyết tranh chấp của vụ án theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng và trái pháp luật mà không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành để giải quyết đúng đắn vụ việc là hành vi vi phạm tố tụng nghiêm trọng.

Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hai bên không thỏa thuận về thời gian thử việc, ông Thành là nhân viên lái xe thì việc làm đương nhiên là lái xe. Chứng cứ này đương nhiên bác bỏ thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày mà Tòa án tùy tiện áp đặt theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng. Khoản 8 Điều 3 và Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT giải thích và quy định rõ nghề lái xe là lao động sơ cấp đương nhiên bác bỏ nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP mà Tòa án lạm quyền áp đặt trái pháp luật.

Không chứng minh được hai bên có thỏa thuận về thời gian thử việc và việc làm thử, không chứng minh được lỗi của ông Thành mà Công ty Quốc tế tùy tiện áp đặt trái pháp luật tại Quyế định số 18/QĐ/2013, không chứng minh được lý do cho ông Thành nghỉ việc là có căn cứ và hợp pháp, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh Tòa án và Cơ quan hòa giải lao động không phải là các cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm đã đương nhiên bác bỏ ông Thành không đạt yêu cầu (?) thử việc mà hai bên đã thỏa thuận (?) mà Tòa án và Cơ quan hòa giải lao động lạm quyền tùy tiện áp đặt trái pháp luật.

Công ty Quốc tế tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 1 Điều 38 đương nhiên bác bỏ việc giải quyết tranh chấp lao động trái Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động mà Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án đã lạm quyền tùy tiện giải quyết theo ý chí chủ quan và trái pháp luật.

Không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận quyết định y án sơ thẩm theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng tại bản án phúc thẩm là trái pháp luật. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm là các bản án oan sai và đương nhiên bị hủy theo quy định tại khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án hai cấp tiến hành giải quyết tranh chấp lao động giữa ông Thành và SMI trái pháp luật đã làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa ông Thành và các cơ quan này. Các văn bản bị khiếu nại của các cơ quan này đều không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng các cơ quan này lại căn cứ vào chính văn bản bị khiếu nại để trả lời khiếu nại và giải quyết khiếu nại trái pháp luật. Bất chấp pháp luật, có những yêu cầu giải quyết khiếu nại không được các cơ quan này giải quyết.

Căn cứ vào các hành vi vi phạm pháp luật của những người liên quan trong việc giải quyết vụ án này, ông Thành đưa ra lý do tương tự lý do của SMI để yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những người có sai phạm. Trái với hành vi lạm quyền nhiệt tình tiếp tay cho lý do tùy tiện sa thải người lao động trái pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền liên quan đều phớt lờ và không giải quyết.

Biên bản phiên tòa

Thư ký Tòa án sơ thẩm không cho ông Thành xem biên bản phiên tòa sơ thẩm với lý do chưa viết. Thư ký Tòa án phúc thẩm Đoàn Thị Nguyên không cho ông Thành ghi ý kiến và ký vào biên bản phiên tòa phúc thẩm.

Nội dung vô hiệu

Giả sử có thử việc thì tại thời điểm ngày 26/3/2013 là thời gian làm việc chính thức theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP, khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Do đó, nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” tại Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013 của Công ty Quốc tế đơn phương áp đặt khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đương nhiên là trái quy định của pháp luật và là nội dung bị vô hiệu. Các nội dung việc làm thử và thời gian thử việc phát sinh theo nội dung vô hiệu này trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động thì đương nhiên cũng bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.

Lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Công ty Quốc tế (SMI) “tùy tiện áp đặt và không chứng minh được” 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành. SMI sử dụng “lý do không có căn cứ và hợp pháp” để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải NLĐ trái pháp luật.

Quan hệ pháp luật và phạm vi khởi kiện

Trong vụ án này có hai quan hệ tranh chấp, một quan hệ tranh chấp về lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế, một quan hệ tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án. Quan hệ tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành trong quan hệ tranh chấp về lao động.

Hợp đồng lao động miệng

Căn cứ hình thức, nội dung và loại hợp đồng thì hợp đồng lao động giữa hai bên được xác định là hợp đồng lao động miệng và không xác định thời hạn (viết tắt là hợp đồng miệng hoặc hợp đồng).

Hợp đồng lao động

Các nội dung hai bên không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung do một bên áp đặt thực hiện trái quy định của pháp luật là nội dung vô hiệu.

Bản án phúc thẩm

Ông Thành nhận được hai bản án phúc thẩm có nội dung khác nhau tại dòng 18 trang 1. Một bản án thể hiện “Trong ngày 12/09/2014 tại trụ sở…”, một bản án thể hiện “Trong các ngày 23/07/2014 và ngày 12/09/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh…”.

Bản án sơ thẩm

Bản án thể hiện không đúng với nội dung đơn khởi kiện, không đúng sự thật, khác với nội dung tuyên án, có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và là bản án không căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Xe Captival
- Đại diện theo ủy quyền của Bị đơn là bất hợp pháp.
- SMI không chứng minh được lỗi của ông Thành.
Tranh chấp lao động
- Lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động
- Tranh chấp lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn
Xe Captival 52LD-4812
- Công ty Quốc tế (SMI) yêu cầu đổ xăng.
- Ông Thành thực hiện đúng yêu cầu của SMI.
- Người bán xăng trực tiếp mở nắp bình và đổ xăng.
- Công việc lái xe không phải là công việc nhận lỗi.
LopJapan
- Ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá.
Bà Châu nói sai sự thật
- Đại diện của SMI nói sai sự thật.
Nhân chứng Vũ Thị Phương
- Nhân chứng tố cáo SMI không cho nói ra sự thật.
Nhân chứng xác nhận báo giá là đúng
- Nhân chứng xác nhận báo giá lốp xe Captival của mình
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô bị hiệu theo quy định của pháp luật
- Giả sử có thử việc thì tại thời điểm ngày 26/3/2013 là thời gian làm việc chính thức theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP, khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Do đó, nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” đương nhiên là trái quy định và là nội dung bị vô hiệu.
Thuê tài xế lái xe
- Nghề lái xe: Thực tiễn chứng minh miễn thử việc
- Ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp
HỒ SƠ VỤ ÁN KHÔNG CÓ:
- Văn bản số 451
- Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2014
- Video người bán xăng mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng
- Tài liệu liên quan khác

 
MH51
CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn