HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

ĐƠN KHIẾU NẠI
Ngày 3 tháng 9 năm 2015

Văn bản số 777/UBMT-BTT ngày 10/08/2015 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh
Về việc trả lại Đơn khiếu nại ghi ngày 18/11/2014 của ông Thành

Kính gửi: Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh

II. NGƯỜI BỊ KHIẾU NẠI

1.        Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh.

2.        Ông Vũ Thanh Lưu - Phó Chủ tịch Ban Thường trực UBMTTQVN thành phố Hồ Chí Minh.

3.        Cơ quan và người tiến hành tố tụng.

2.        Đương sự và người làm chứng là cơ quan nhà nước; đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước.

III. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

CĂN CỨ

- Căn cứ Luật khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011;
- Căn cứ Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012;
- Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự ngày 29 tháng 3 năm 2011 (Viết tắt là BLTTDS);
- Căn cứ Luật Mặt trân Tổ quốc Việt Nam số 14/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999;
- Căn cứ Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ngày 16 tháng 08 năm 2001;
- Căn cứ Luật cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008;
- Căn cứ Luật viên chức số 58/2010/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2010;
- Căn  cứ Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005;
- Căn cứ Cơ sở dữ liệu tại hệ thống thông tin ThuongHieudoanhNghiep.VN/smi do ông Thành tạo lập để cung cấp thông điệp dữ liệu là thông tin phản ánh, khiếu nại, khởi kiện, kháng cáo, kiến nghị của ông Thành (sau đây viết tắt là Hồ sơ điện tử Vụ án SMI);
- Căn cứ Văn bản hướng dẫn số 777/UBMT-BTT ngày 10/08/2015 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là Văn bản số 777). Về việc trả lại Đơn khiếu nại ghi ngày 18/11/2014.

NHẬN THẤY

1. Quy định của pháp luật

- Khoản 2 Điều 284 của BLTTDS quy định về Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm

Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này.

Điều 21 của BLTTDS. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.

- Điểm i và điểm s Điều 58 của BLTTDS quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự

i) Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;

s) Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này;

- Điều 24 của BLTTDS quy định về Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.

- Điều 2 của Luật khiếu nại quy định về Giải thích từ ngữ

Trong Luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

2. Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.

3. Rút khiếu nại là việc người khiếu nại đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chấm dứt khiếu nại của mình.

4. Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân.

5. Người bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.

6. Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

7. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là người khiếu nại, người bị khiếu nại nhưng việc giải quyết khiếu nại có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ.

8. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

9. Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

10. Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

11. Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.

- Khoản 1 Điều 9 của Hiến pháp quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Điều 1 của Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị

1- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

- Điều 2 của Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam quy định về Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Khoản 5 Điều 7 của Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam quy định về Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thi hành chính sách, pháp luật

Tổng hợp, nghiên cứu ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước.

- Điều 10 của Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm quy định về Tham gia tố tụng, tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu Hội thẩm Toà án nhân dân

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền và trách nhiệm tham gia tố tụng, tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn để bầu, cử làm Hội thẩm Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật.

- Khoản 3 và khoản 4 Điều 12 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP quy định về việc tuyển chọn thẩm phán, giới thiệu hội thẩm Tòa án nhân dân

3. Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gửi hồ sơ và danh sách dự kiến tuyển chọn thẩm phán của Toà án nhân dân cấp tỉnh chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày họp Hội đồng tuyển chọn thẩm phán để Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức lấy ý kiến nhân dân ở địa phương nơi cư trú đối với người dự kiến được tuyển chọn làm thẩm phán.

Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện gửi hồ sơ và danh sách dự kiến tuyển chọn thẩm phán của Toà án nhân dân cấp huyện chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày họp Hội đồng tuyển chọn thẩm phán để Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tổ chức lấy ý kiến nhân dân ở địa phương nơi cư trú đối với người dự kiến được tuyển chọn làm thẩm phán.

4. Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Thường trực Hội đồng nhân dân thông báo để Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức hiệp thương, lựa chọn, giới thiệu Hội thẩm Toà án nhân dân địa phương theo hướng dẫn của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Điều 19 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định về Giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Tòa án nhân dân theo quy định của luật.

Điều 10 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định về Giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.

- Điều 66 của Luật khiếu nại quy định về Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại theo quy định của Luật này; động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật về khiếu nại; tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại; khi nhận được khiếu nại thì nghiên cứu, hướng dẫn người khiếu nại đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

2. Khiếu nại do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận chuyển đến phải được người giải quyết khiếu nại xem xét, giải quyết và trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết phải thông báo bằng văn bản cho tổ chức đã chuyển đơn biết kết quả giải quyết; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết đó thì tổ chức đã chuyển đơn có quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết; cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm trả lời kiến nghị đó trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết.

- Điều 12 của Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam quy định về Hoạt động giám sát

1- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.

2- Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây:

a) Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát;

b) Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước;

c) Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

- Điều 13 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP quy định về Hoạt động giám sát

1. Cơ quan Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra ở địa phương có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét, tiếp thu kiến nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Ban Thanh tra nhân dân và ý kiến của các tầng lớp nhân dân phản ánh thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

2. Khi cần thiết, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mời đại diện Ban Thanh tra nhân dân tham gia giám sát, thanh tra, kiểm tra, ở xã, phường, thị trấn. Ban Thanh tra nhân dân có trách nhiệm cung cấp thông tin, cử người tham gia khi được yêu cầu tham gia giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan Nhà nước.

Khi Ban Thanh tra nhân dân thực hiện quyền giám sát, kiểm tra theo quy định của pháp luật thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi được giám sát, kiểm tra có trách nhiệm cung cấp thông tin, trả lời kiến nghị theo quy định tại Điều 15 của Nghị định này.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tạo điều kiện để Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã chỉ đạo tổ chức, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân.

Cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và bảo vệ công dân khi họ thực hiện quyền giám sát của mình.

3. Hội đồng nhân dân các cấp khi thực hiện nhiệm vụ giám sát có trách nhiệm:

a. Mời đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tham gia xây dựng kế hoạch giám sát của Hội đồng nhân dân.

b. Mời đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tham gia hoạt động giám sát.

c. Cung cấp thông tin có liên quan đến công tác giám sát của Hội đồng nhân dân cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;

d. Tạo điều kiện để đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đưa kiến nghị liên quan đến nội dung giám sát.

đ. Tiếp nhận những thông tin có liên quan đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp cung cấp.

4. Người đứng đầu cơ quan Nhà nước có trách nhiệm:

a. Tiếp, cung cấp thông tin và giải trình những vấn đề liên quan theo yêu cầu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khi tiến hành hoạt động giám sát;

b. Cử đại diện tham gia hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khi Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị;

c. Xem xét, giải quyết kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt; xem xét, giải quyết, xử lý kịp thời những trường hợp vi pháp pháp luật và thông báo kết quả xử lý cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có kiến nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Nghị định này.

- Điều 15 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP quy định về Trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

1. Tại các kỳ họp, phiên họp của Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội là thành viên của Mặt trận tham dự và trực tiếp nêu kiến nghị thì Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm trả lời ngay tại kỳ họp, phiên họp; trong trường hợp cần nghiên cứu thêm thì trả lời bằng văn bản trong thời hạn chậm nhất không quá ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị hoặc trả lời tại kỳ họp, phiên họp tiếp theo.

2. Trong trường hợp cơ quan nhà nước nhận được kiến nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì cơ quan đó có trách nhiệm trả lời trong thời hạn chậm nhất không quá ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị. Trong trường hợp Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận chưa tán thành với việc trả lời, thì các bên phối hợp thảo luận để thống nhất phương án giải quyết. Nếu không thống nhất được thì báo cáo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp trên. Cơ quan Nhà nước cấp trên xem xét, giải quyết trong thời hạn chậm nhất không quá bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo.

3. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm nghiên cứu, xem xét những kiến nghị của tổ chức và cá nhân về việc đình chỉ hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật được phản ánh thông qua Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.

- Điều 5 của Luật khiếu nại quy định về Trách nhiệm giải quyết khiếu nại và phối hợp giải quyết khiếu nại

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết khiếu nại được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.

2. Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc khiếu nại theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của mình; nếu trái pháp luật phải kịp thời sửa chữa, khắc phục, tránh phát sinh khiếu nại.

Nhà nước khuyến khích việc hòa giải tranh chấp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trước khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó.

- Khoản 3 Điều 65 của Luật khiếu nại quy định về Trách nhiệm phối hợp trong công tác giải quyết khiếu nại

Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân địa phương định kỳ báo cáo Hội đồng nhân dân và thông báo đến Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về tình hình khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính và công tác giải quyết khiếu nại, xét xử vụ án hành chính trong phạm vi địa phương mình.

- Điều 67 của Luật khiếu nại quy định về Xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người giải quyết khiếu nại

Người giải quyết khiếu nại có một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 6 của Luật này hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

- Điều 23 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP quy định về Khen thưởng và xử lý vi phạm

1. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.

Tổ chức, cá nhân có thành tích khi tham gia phối hợp công tác với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khen thưởng theo quy định của pháp luật.

2. Tổ chức có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Cá nhân có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố tình cản trở hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Điều 2 của Luật giao dịch điện tử. Đối tượng áp dụng

Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử.

Điều 3 của Luật giao dịch điện tử. Áp dụng Luật giao dịch điện tử

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật giao dịch điện tử với quy định của luật khác về cùng một vấn đề liên quan đến giao dịch điện tử thì áp dụng quy định của Luật giao dịch điện tử.

Trích Điều 4 của Luật giao dịch điện tử. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

4. Cơ sở dữ liệu là tập hợp các dữ liệu được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai thác, quản lý và cập nhật thông qua phương tiện điện tử.

5. Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự.

6. Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử.

7. Giao dịch điện tử tự động là giao dịch điện tử được thực hiện tự động từng phần hoặc toàn bộ thông qua hệ thống thông tin đã được thiết lập sẵn.

8. Hệ thống thông tin là hệ thống được tạo lập để gửi, nhận, lưu trữ, hiển thị hoặc thực hiện các xử lý khác đối với thông điệp dữ liệu.

10. Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.

12. Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.

Điều 5 của Luật giao dịch điện tử. Nguyên tắc chung tiến hành giao dịch điện tử

1. Tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch.

2. Tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch điện tử.

3. Không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử.

4. Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử.

5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.

6. Giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Điều 40 của Luật này.

Điều 9 của Luật giao dịch điện tử. Các hành vi bị nghiêm cấm trong giao dịch điện tử

1. Cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử.

2. Cản trở hoặc ngăn chặn trái phép quá trình truyền, gửi, nhận thông điệp dữ liệu.

3. Thay đổi, xoá, huỷ, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu.

4. Tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm làm rối loạn, thay đổi, phá hoại hệ thống điều hành hoặc có hành vi khác nhằm phá hoại hạ tầng công nghệ về giao dịch điện tử.

5. Tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật.

6. Gian lận, mạo nhận, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điện tử của người khác.

Điều 10 của Luật giao dịch điện tử. Hình thức thể hiện thông điệp dữ liệu

Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.

Điều 11 của Luật giao dịch điện tử. Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu

Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.

Điều 12 của Luật giao dịch điện tử. Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản

Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.

Điều 13 của Luật giao dịch điện tử. Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc

Thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc khi đáp ứng được các điều kiện sau đây:

1. Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hoàn chỉnh.

Nội dung của thông điệp dữ liệu được xem là toàn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu;

2. Nội dung của thông điệp dữ liệu có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.

Điều 14 của Luật giao dịch điện tử. Thông điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ

1. Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu.

2. Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.

Điều 16 của Luật giao dịch điện tử. Người khởi tạo thông điệp dữ liệu

1. Người khởi tạo thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu giữ nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu.

2. Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thỏa thuận khác thì việc xác định người khởi tạo một thông điệp dữ liệu được quy định như sau:

a) Một thông điệp dữ liệu được xem là của người khởi tạo nếu thông điệp dữ liệu đó được người khởi tạo gửi hoặc được gửi bởi một hệ thống thông tin được thiết lập để hoạt động tự động do người khởi tạo chỉ định;

b) Người nhận có thể coi thông điệp dữ liệu là của người khởi tạo nếu đã áp dụng các phương pháp xác minh được người khởi tạo chấp thuận và cho kết quả thông điệp dữ liệu đó là của người khởi tạo;

c) Kể từ thời điểm người nhận biết có lỗi kỹ thuật trong việc truyền gửi thông điệp dữ liệu hoặc đã sử dụng các phương pháp xác minh lỗi được người khởi tạo chấp thuận thì không áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản này.

3. Người khởi tạo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông điệp dữ liệu do mình khởi tạo.

Điều 17 của Luật giao dịch điện tử. Thời điểm, địa điểm gửi thông điệp dữ liệu

Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì thời điểm, địa điểm gửi thông điệp dữ liệu được quy định như sau:

1. Thời điểm gửi một thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu này nhập vào hệ thống thông tin nằm ngoài sự kiểm soát của người khởi tạo;

2. Địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có nhiều trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.

Điều 18 của Luật giao dịch điện tử. Nhận thông điệp dữ liệu

1. Người nhận thông điệp dữ liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu đó.

2. Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì việc nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:

a) Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được;

b) Người nhận có quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được là một thông điệp dữ liệu độc lập, trừ trường hợp thông điệp dữ liệu đó là bản sao của một thông điệp dữ liệu khác mà người nhận biết hoặc buộc phải biết thông điệp dữ liệu đó là bản sao;

c) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo có yêu cầu hoặc thoả thuận với người nhận về việc người nhận phải gửi cho mình thông báo xác nhận khi nhận được thông điệp dữ liệu thì người nhận phải thực hiện đúng yêu cầu hoặc thoả thuận này;

d) Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;

đ) Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận; nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.

Điều 19 của Luật giao dịch điện tử. Thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu

Trong trường hợp các bên tham gia giao dịch không có thoả thuận khác thì thời điểm, địa điểm nhận thông điệp dữ liệu được quy định như sau:

1. Trường hợp người nhận đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận là thời điểm thông điệp dữ liệu nhập vào hệ thống thông tin được chỉ định; nếu người nhận không chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thông điệp dữ liệu thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là thời điểm thông điệp dữ liệu đó nhập vào bất kỳ hệ thống thông tin nào của người nhận;

2. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của người nhận nếu người nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.

Điều 20 của Luật giao dịch điện tử. Gửi, nhận tự động thông điệp dữ liệu

Trong trường hợp người khởi tạo hoặc người nhận chỉ định một hoặc nhiều hệ thống thông tin tự động gửi hoặc nhận thông điệp dữ liệu thì việc gửi, nhận thông điệp dữ liệu được thực hiện theo quy định tại các Điều 16, 17, 18 và 19 của Luật này.

Trích Điều 39 của Luật giao dịch điện tử. Các loại hình giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước

3. Giao dịch điện tử giữa cơ quan nhà nước với cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Trích Điều 40 của Luật giao dịch điện tử. Nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước

1. Các nguyên tắc quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 5 của Luật này.

4. Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và tình hình cụ thể, cơ quan nhà nước xác định một lộ trình hợp lý sử dụng phương tiện điện tử trong các loại hình giao dịch quy định tại Điều 39 của Luật này.

5. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giao dịch với cơ quan nhà nước nếu cơ quan nhà nước đó đồng thời chấp nhận giao dịch theo phương thức truyền thống và phương tiện điện tử, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Điều 38 của BLTTDS. Nhập hoặc tách vụ án

1. Toà án có thể nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Toà án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm đúng pháp luật.

2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp luật.

3. Khi nhập hoặc tách vụ án quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Toà án đã thụ lý vụ án phải ra quyết định và gửi ngay cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

Điều 44 của BLTTDS. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát

1. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự;

b) Quyết định phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này;

c) Kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên;

d) Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;

đ) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này;

e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật này.

2. Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng quy định tại khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.

Điều 45 của BLTTDS. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên

Khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Toà án;

2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;

3. Kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;

4. Tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;

5. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.

- Điều 11 của Luật khiếu nại quy định về Các khiếu nại không được thụ lý giải quyết

Khiếu nại thuộc một trong các trường hợp sau đây không được thụ lý giải quyết:

1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ; quyết định hành chính, hành vi hành chính trong chỉ đạo điều hành của cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; quyết định hành chính có chứa đựng các quy phạm pháp luật do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định;

2. Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;

3. Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có người đại diện hợp pháp;

4. Người đại diện không hợp pháp thực hiện khiếu nại;

5. Đơn khiếu nại không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại;

6. Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;

7. Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

8. Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30 ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;

9. Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án.

- Điều 27 của Luật khiếu nại quy định về Thụ lý giải quyết khiếu nại

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.

Hiến pháp: Điều 9; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Điều 1, 2, 7, 10, 12; Nghị định số 50/2001/NĐ-CP: Điều 12, 13, 15, 23, ; Luật tổ chức Tòa án nhân dân: Điều 19, ; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân: Điều 10, ; Luật khiếu nại: Điều 2, 5, 11, 27, 65, 66, 67, ; Bộ luật tố tụng dân sự: Điều 21, 24, 38, 44, 45, 58, 284, 285; Luật giao dịch điện tử: Điều 2, 3, 4, 5, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 16, 17, 18, 19, 20, 39, 40.

2. Nội dung khởi kiện của ông Thành

a) Tóm tắt đơn khởi kiện

Việc khởi kiện là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Tranh chấp lao động là “lý do cho ông Nguyễn Đức Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 (viết tắt là Quyết định số 18/QĐ/2013) của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (viết tắt là SMI)”.

Nội dung đơn khởi kiện được tóm tắt như sau:

- Ngày 26/02/2013, ông Nguyễn Đức Thành và Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) đã cùng nhau giao kết hợp đồng lao động theo hình thức hợp đồng miệng và loại hợp đồng không xác định thời hạn. Ngày 01/03/2013, ông Thành bắt đầu làm việc với nội dung công việc là lái xe theo nội dung hợp đồng lao động miệng ngày 26/02/2013. Ngày 26/03/2013, SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do là ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013.

- Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh: Quan hệ lao động giữa ông Thành và SMI được xác lập trên cơ sở hợp đồng lao động miệng được thực hiện từ ngày 01/03/2013; Việc làm là lái xe; Thời gian kết thúc hợp đồng lao động theo thỏa thuận là không xác định; Nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” là nội dung vô hiệu do trái pháp luật; Lý do SMI cho ông Thành nghỉ việc là tranh chấp lao động;

 Lý do vô căn cứ và trái pháp luật 

Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động và tài liệu, chứng cứ khác của ông Thành đã giao nộp cho Tòa án sơ thẩm là chứng cứ chứng minh lý do ông Thành gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lý do vô căn cứ và trái pháp luật.

- Quyết định trên được giao nộp cho Tòa án sơ thẩm ngay khi ông Thành nộp đơn khởi kiện. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm ông Thành đã giao nộp bổ sung cho Tòa án sơ thẩm nhiều tài liệu, chứng cứ khác.

- Yêu cầu khởi kiện: Thứ nhất, SMI phải hủy Quyết định số 18/QĐ/2013 và ban hành quyết định công khai xin lỗi ông Thành do Tổng giám đốc ký; Thứ hai, SMI bồi thường một khoản tiền cho ông Thành theo đúng quy định của pháp luật do hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt tranh luận, chứng minh và chứng cứ:

- Lý do cho ông Thành nghỉ việc nêu tại Quyết định số 18/QĐ/2013 là: “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá: 3.250.000 đồng)”.

- Bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật:

Thứ nhất, không chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành thì đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc là vô căn cứ và trái pháp luật.

Thứ hai, Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh Hòa giải viên (HGV) và đại diện của SMI đã thừa nhận “SMI không chứng minh được lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật lao động” (đại diện của SMI trả lời HGV là không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành) thì theo quy định tại Điều 80 của BLTTDS đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc là lý do vô căn cứ và trái pháp luật.

Thứ ba, Văn bản có xác nhận của các nhân chứng Vũ Thị Phương, Đoàn Văn Túy và Công ty TNHH Ô tô GM Việt Nam Chi nhánh Hồ Chí Minh do ông Thành thu thập và cung cấp là chứng cứ theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của BLTTDS chứng minh (i) việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến SMI; (ii) đại diện của SMI cố ý nói sai sự thật.

Thứ tư, tình tiết người bán xăng mở nắp bình dầu và đổ xăng là tình tiết công khai mà mọi người đều biết thì đương nhiên là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 80 của BLTTDS.

Thứ năm, Pháp luật không quy định “1. Việc ông Thành đưa xe Captival đi đổ xăng theo yêu cầu của SMI là lỗi; 2. Công việc lái xe là nhận lỗi; 3. Việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival từ đại diện của Hãng Cherolet đến SMI là lỗi” thì đương nhiên 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành.

- Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật

Vì các lẽ trên, HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng minh được lỗi của ông Thành thì Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 đương nhiên là chứng cứ chứng minh SMI đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. SMI không chứng minh được lỗi của ông Thành theo Điều 87 và thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và hoàn toàn trái Điều 85 và Điều 38 của Bộ luật lao động là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật:

- Nội dung của giao dịch dân sự trái với Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động và Điều 4, điểm c khoản 1 Điều 122 của Bộ luật dân sự thì bị vô hiệu theo Điều 127, Điều 131, Điều 133, Điều 135 của Bộ luật dân sự và khoản 4 Điều 166 của Bộ luật lao động.

- Nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là nội dung bị vô hiệu do trái Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động. Nội dung “Tôi vào làm thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động phát sinh theo nội dung bị vô hiệu này do nhầm lẫn đương nhiên là nội dung bị vô hiệu theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự.

- Các nội dung của Phương án hòa giải của Hòa giải viên trái với quy định của pháp luật thì đương nhiên bị vô hiệu.

b) Chi tiết đơn khởi kiện: Xem Đơn khởi kiện tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI.

3. Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật

Chi tiết của Biên bản hòa giải lao động ngày 24/04/2013 của Cơ quan hòa giải lao động, các đơn khiếu nại Biên bản hòa giải lao động này xem tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi).

Nội dung hòa giải trái pháp luật đương nhiên bị vô hiệu:

Mâu thuẫn 1: Hòa giải viên (HGV) áp đặt lý do trái Điều 32 Bộ luật lao động mâu thuẫn với lý do trái Điều 87 của Bộ luật này mà SMI áp đặt. Lý do “Ông Nguyễn Đức Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013” của SMI đương nhiên bác bỏ lý do “việc làm thử không đạt yêu cầu” của HGV. Lý do của HGV và SMI là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật như đã trình bày Nội dung khởi kiện 2 ở trên và Mâu thuẫn 5 ở dưới.

Mâu thuẫn 2: Giả sử có thời gian thử việc thì 0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Nghề lái xe là lao động sơ cấp theo quy định tại khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Từ ngày 01 đến ngày 26 là bao nhiêu ngày và thời gian thử việc được thỏa thuận từ ngày nào đến ngày nào mà HGV tùy tiện áp đặt “ông Thành đang trong thời gian thử việc” và không bác bỏ nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” tại Quyết định số 18 của SMI?

Mâu thuẫn 3: Giả sử có việc làm thử thì HGV tiến hành hòa giải không khách quan, không chính xác và trái pháp luật khi cho rằng SMI có quyền tùy tiện hủy bỏ thỏa thuận làm thử. HGV căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động mâu thuẫn với nội dung việc làm thử mà hai bên thỏa thuận không được xác định là những nội dung nào (?), ông Thành không đạt yêu cầu nào của SMI (?) hay SMI không đạt yêu cầu nào của ông Thành (?), mâu thuẫn với nội dung “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/203”, mâu thuẫn với pháp luật lao động không quy định người lao động phải thực hiện nghĩa vụ thử việc, mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành, trái với Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh HGV không có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe.

Mâu thuẫn 4: HGV cho rằng “ông Thành không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)”. Nội dung này mâu thuẫn với bà Châu là đại diện của SMI đã thừa nhận “Không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành”, mâu thuẫn với HGV đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18”, mâu thuẫn với quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh của ông Thành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự, mâu thuẫn với thực tế là ông Thành đã chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành như HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận.

Mâu thuẫn 5: HGV và SMI đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18” theo Mâu thuẫn 4 thì đương nhiên lý do của SMI và HGV là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Giả sử có thử việc thì tại thời điểm SMI cho ông Thành nghỉ việc ngày 26/5/2013 cũng đã là thời gian làm việc chính thức theo Mâu thuẫn 2. Tuy nhiên, không chứng minh được ông Thành và SMI đang thực hiện hợp đồng lao động có nội dung việc làm thử là gì (?) và thời gian thử việc là bao lâu (?) theo thỏa thuận (?) hoặc theo quy định của pháp luật (?) nhưng HGV đã tùy tiện áp đặt Điều 32 của Bộ luật lao động để giải quyết tranh chấp lao động theo ý chí chủ quan của HGV là hành vi vi cố ý thực hiện trái Điều 32 này, các khoản 2 và 3 Điều 158 của Bộ luật này và mâu thuẫn với thực tế hai bên đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận “SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật” và bác bỏ “nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) và lý do nêu trong Quyết định số 18” nhưng HGV lại đùn đẩy trách nhiệm này lên Tòa án hai cấp.

4. Bác bỏ toàn bộ bản án của Tòa án do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án

a) Chi tiết nội dung bác bỏ Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh (viết tắt là Bản án sơ thẩm) và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là Bản án phúc thẩm) xem tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi).

b) Tóm tắt nội dung bác bỏ bản án của Tòa án:

Thứ nhất, giấy ủy quyền không hợp pháp đương nhiên bác bỏ việc Tòa án thừa nhận bà Hồ Thị Bảo Châu là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm là chứng cứ chứng minh người tiến hành tố tụng đồng thời là người tham gia tố tụng với tư cách là người tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của SMI.

Thứ hai, bị đơn vắng mặt tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm đương nhiên bác bỏ nội dung trình bày của SMI trong Bản án sơ thẩm và phúc thẩm. Nội dung khởi kiện của ông Thành ở trên đương nhiên bác bỏ nội dung khởi kiện của Tòa án trình bày trong Bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Thứ ba, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và SMI là loại hợp đồng không xác định thời hạn và không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thời hạn hợp đồng lao động do hai bên giao kết thì đương nhiên bác bỏ nhận định của Tòa án sơ thẩm tùy tiện cho rằng không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện giao kết giữa nguyên đơn và bị đơn vào ngày 01/03/2013 là hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Thứ tư, nhắc lại nội dung khởi kiện ở trên: Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ chứng minhHGV và đại diện của SMI đã thừa nhậnkhông chứng minh được lỗi của ông Thành” thì lý do cho ông Thành nghỉ việc trong Quyết định số 18/QĐ/2013 đương nhiên là lý do vô căn cứ và trái pháp luật đã chứng minh hành vi Tòa án không bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật đương nhiên là hành vi cố ý lạm quyền làm trái quy định tại Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS.

Thứ năm, tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành càng tăng cường và củng cố vững chắc lý do cho ông Thành nghỉ việc tại Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Các bên không phản đối và cũng không chối cãi được các chứng cứ này thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận việc tiếp tay cho lý do vô căn cứ và trái pháp luật để tùy tiện giải quyết các tranh chấp của vụ án theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng và trái pháp luật mà không căn cứ vào tài liệu, chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành để giải quyết đúng đắn vụ việc là hành vi vi phạm tố tụng rất nghiêm trọng.

Thứ sáu, Tòa án căn cứ Biên bản hòa giải lao động của Cơ quan hòa giải lao động tùy tiện cho rằng ông Thành thừa nhận “Tôi vào làm thử việc” là sai sự thậttrái pháp luật vì ông Thành đã bãi bỏ nội dung nhầm lẫn này theo đúng quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự và sửa đổi là “Tôi vào làm việc”. Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hai bên không thỏa thuận về thời gian thử việc, ông Thành là nhân viên lái xe thì việc làm đương nhiên là lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh nghề lái xe là lao động sơ cấp đương nhiên bác bỏ nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP trong Bản án sơ thẩm. Giả sử có thời gian thử việc thì phải tuân thủ “0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày” theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP đương nhiên bác bỏ thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày trong Bản án phúc thẩm. Không chứng minh được thỏa thuận về thời gian thử việc thì đương nhiên thời gian thử việc theo thỏa thuận theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ là 0 ngày.

Thứ bảy, không chứng minh được hai bên có thỏa thuận về thời gian thử việc và việc làm thử, không chứng minh được lỗi của ông Thành mà SMI tùy tiện áp đặt trái pháp luật tại Quyế định số 18/QĐ/2013, không chứng minh được lý do cho ông Thành nghỉ việc là có căn cứ và hợp pháp, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh Tòa án không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm đã đương nhiên bác bỏ ông Thành không đạt yêu cầu (?) thử việc mà hai bên đã thỏa thuận (?) mà Tòa án lạm quyền tùy tiện áp đặt trái pháp luật.

Thứ tám, tuân thủ Điều 9 và Điều 87 là điều kiện để áp dụng Điều 32 của BLLĐ. SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 1 Điều 38 đương nhiên bác bỏ việc giải quyết tranh chấp lao động trái Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ mà Tòa án đã lạm quyền tùy tiện giải quyết theo ý chí chủ quan và trái pháp luật. Phần “Thứ ba, tranh chấp hành chính về áp dụng pháp luật” của Nội dung 5 ở dưới chứng minh Điều 32 của BLLĐ không phải là cơ sở để giải quyết tranh chấp lao động.

Thứ chín, SMI không chứng minh được (i) lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp và (ii) đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng trình tự theo quy định của pháp luật thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp. Hai yêu cầu khởi kiện nêu ở Nội dung khởi kiện 2 ở trên đều trong phạm vi khởi kiện theo quan hệ pháp luật và quan hệ tranh chấp lao động. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các cấp, ông Thành có quyền theo quy định tại Điều 58 và Điều 59 của BLTTDS là quyền thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại thời điểm giải quyết vụ án.

Vì vậy, (i) Tòa án sơ thẩm không chỉ ra các trường hợp vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được quy định tại điều khoản cụ thể của văn bản pháp luật nào mà lại tùy tiện cho rằng yêu cầu khởi kiện bổ sung của ông Thành thể hiện trong Đơn khởi kiện ngày 04/09/2013 là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện được thể hiện trong đơn khởi kiện là không có cơ sở. (ii) Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm và bác yêu cầu kháng cáo có căn cứ và hợp pháp của ông Thành theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng là hành vi bất chấp pháp luật cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

Thứ mười, không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật thì đương nhiên Tòa án đã thừa nhận quyết định y án sơ thẩm theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng tại bản án phúc thẩm là trái pháp luật. Bản án phúc thẩm là bản án hội đủ các căn cứ (Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật) bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 283 và đương nhiên bị hủy theo quy định tại khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của BLTTDS.

5. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và tranh chấp hành chính

a) Chi tiết nội dung này xem phần tranh luận, biên bản hòa giải sơ thẩm, biên bản phiên tòa và đơn khiếu nại tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI.

b) Tóm tắt một số vi phạm thủ tục tố tụng và tranh chấp hành chính:

Khi Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 thì Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh và Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh đương nhiên là đương sự và người làm chứng của vụ án theo quy định tại Điều 56, Điều 65 của BLTTDS.

Việc Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án hai cấp tiến hành giải quyết tranh chấp lao động giữa ông Thành và SMI trái pháp luật đã làm phát sinh tranh chấp hành chính giữa ông Thành và các cơ quan này. Các văn bản bị khiếu nại của các cơ quan này đều không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng các cơ quan này lại căn cứ vào chính văn bản bị khiếu nại để trả lời khiếu nại và giải quyết khiếu nại trái pháp luật. Bất chấp pháp luật, có những yêu cầu giải quyết khiếu nại không được các cơ quan này giải quyết.

Tranh chấp hành chính là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của đương sự, cơ quan và người tiến hành tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án do ông Thành có khiếu nại, bao gồm: tranh chấp về (1) việc khởi kiện và thụ lý vụ án; (2) nội dung vô hiệu của hợp đồng lao động; (3) quan hệ pháp luật và phạm vi khởi kiện; (4) áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (5) thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ; (6) thay đổi người tiến hành tố tụng; (7) áp dụng pháp luật; (8) xác định tài liệu, chứng cứ dùng để giải quyết tranh chấp lao động; (9) giá trị pháp lý của văn bản ủy quyền người tham gia tố tụng; (10) các vi phạm tố tụng và vi phạm pháp luật khác.

Thứ nhất, tranh chấp hành chính về việc khởi kiện: Tòa án sơ thẩm cố ý giải quyết việc khởi kiện trái với việc khởi kiện của ông Thành và mâu thuẫn với Thông báo thụ lý vụ án lao động sơ thẩm số 56/TB-TA ngày 30/05/2013 của chính Tòa án. Việc khởi kiện thể hiện tại đơn khởi kiện của ông Thành và Bản án phúc thẩm là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” đương nhiên (i) bác bỏ việc khởi kiện thể hiện tại Bản án sơ thẩm là “Đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” và (ii) chứng minh Tòa án sơ thẩm đã có hành vi cố ý giải quyết việc khởi kiện trái quy định của pháp luật.

Thứ hai, tranh chấp hành chính về tranh chấp lao động: Quyết định số 18/QĐ/2013 chứng minh (i) SMI và ông Thành không thỏa thuận hợp đồng thử việc và (ii) lý do vô căn cứ và trái pháp luật nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là tranh chấp lao động giữa hai bên đương nhiên bác bỏ tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc do Tòa án lạm quyền và tùy tiện áp đặt trái pháp luật.

Thứ ba, tranh chấp hành chính về áp dụng pháp luật:

- Như đã trình bày ở trên, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 của Bộ luật lao động (BLLĐ) thì đương nhiên phải thực hiện theo trình tự quy định tại Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 38, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật này.

- Theo BLLĐ thì tuân thủ Điều 9 và Điều 87 là điều kiện để Điều 32 có hiệu lực: Pháp luật lao động (i) chứng minh việc áp đặt thời gian thử việc và việc làm thử là hoàn toàn trái với quy định “quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau” thì đương nhiên bị vô hiệu; (ii) quy định khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động.

- Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh (i) doanh nghiệp, tòa án, cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe, (ii) giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư này quy định rõ ràng hình thức đào tạo lái xe là đào tạo sơ cấp nghề và thực tế ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề lái xe thì đương nhiên nghề lái xe là lao động sơ cấp.

- Giả sử có thời gian thử việc thì phải tuân thủ “0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày” quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Không chứng minh được thỏa thuận về thời gian thử việc thì đương nhiên thời gian thử việc theo thỏa thuận là 0 ngày. Do đó, các nội dung (i) “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013, (ii) “ông Thành đang trong thời gian thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động, (iii) “nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP” trong Bản án sơ thẩm và (iv) “thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày” trong Bản án phúc thẩm là trái pháp luật thì đương nhiên bị bác bỏ và bị vô hiệu.

- Tuy nhiên, Tòa án áp dụng Điều 32 của BLLĐ và khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để giải quyết tranh chấp lao động là hành vi cố ý làm trái các quy định tại khoản 8 Điều 3 và Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT, khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP áp dụng đối với lao động sơ cấp, Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ. Nhấn mạnh, Điều 32 của BLLĐ không phải là căn cứ pháp luật để áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp lao động.

- Thực tiễn chứng minh (i) miễn thử việc đối với nghề lái xe và (ii) và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành.

- Như vậy, SMI tùy tiện cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 1 Điều 38 đương nhiên bác bỏ việc giải quyết tranh chấp lao động trái Điều 9 và Điều 32 của BLLĐ mà Cơ quan hòa giải lao động và Tòa án đã lạm quyền tùy tiện giải quyết theo ý chí chủ quan và trái pháp luật. Nhắc lại, Điều 32 của BLLĐ không phải là căn cứ pháp luật để áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp lao động.

- Không chứng minh được (i) lý do nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lý do có căn cứ và hợp pháp và (ii) SMI đã cho ông Thành nghỉ việc đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật thì yêu cầu khởi kiện của ông Thành đương nhiên là yêu cầu có căn cứ và hợp pháp. Bất chấp pháp luật (chi tiết xem Yêu cầu giải quyết kháng cáo của Đơn kháng cáo tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI), Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm và bác yêu cầu kháng cáo có căn cứ và hợp pháp của ông Thành theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

Thứ tư, tranh chấp hành chính về chứng minh và chứng cứ:

- Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh SMI không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành. Đương nhiên, ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh nhưng cũng đã cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 không phải là lỗi của ông Thành. Bất chấp Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS, Tòa án phúc thẩm vẫn quyết định y án sơ thẩm theo lập luận không có cơ sở và ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng đồng thời là người tham gia tố tụng là 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là lỗi của ông Thành.

- Ở trên đã chứng minh nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” trong Quyết định số 18/QĐ/2013 là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật thì nội dung “tôi vào làm thử việc” trong Biên bản hòa giải lao động đương nhiên là nội dung bị vô hiệu do nhầm lẫn về nhận thức pháp luật.

- Nhắc lại, Quyết định số 18/QĐ/2013 là chứng cứ chứng minh hợp đồng lao động giữa ông Thành và SMI là loại hợp đồng không xác định thời hạn. Theo điểm a khoản 1 Điều 27 của Bộ luật Lao động thì “Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng” và khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP thì hợp đồng lao động không xác định thời hạn áp dụng cho những (lái xe là) công việc không xác định được thời điểm kết thúc.

- Hai văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013 là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI tham gia phiên hòa giải sơ thẩm ngày 18/07/2013 thì đương nhiên Bản tự khai của cá nhân bà Châu và Biên bản hòa giải sơ thẩm cùng ngày 18/07/2013 là các văn bản không có giá trị pháp lý. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không cung cấp cho ông Thành chứng cứ chứng minh bà Châu là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI thì đương nhiên bà Châu không phải là người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của SMI và các đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Châu không có giá trị pháp lý.

- Bản án sơ thẩm và phúc thẩm là chứng cứ chứng minh Tòa án sử dụng nội dung bị vô hiệu thay vì tuyên bố vô hiệu theo khoản 4 Điều 166 của BLLĐ, sử dụng lý do vô căn cứ và trái pháp luật thay vì bác bỏ theo kết quả tranh tụng tại phiên tòa, áp dụng trái quy định của Bộ luật lao động, Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT và Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để giải quyết việc khởi kiện và tranh chấp lao động trái pháp luật thay vì tuân theo Điều 197 của BLTTDS là bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà.

Thứ năm, tranh chấp hành chính về tuân thủ pháp luật

- Hoạt động tố tụng dân sự của những người và cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án này trái với những nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương II của BLTTDS, ngoại trừ Điều 15, khoản 1 Điều 17 và các Điều 18, 19, 20.

- Vi phạm thủ tục tố tụng về thời hạn thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, giải quyết khiếu nại và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được lặp đi lặp lại ở Tòa án hai cấp nhưng Tòa án hai cấp đều trả lời trái pháp luật bằng văn bản là tuân thủ đúng thời hạn tố tụng.

- Thông báo số 07/TB-TAQBTh ngày 11/04/2013 là chứng cứ chứng minh Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh cản trở ông Thành khởi kiện bằng yêu cầu trái pháp luật là yêu cầu ông Thành cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng lao động miệng.

- Bốn văn ủy quyền của SMI (2 văn bản ủy quyền cùng ngày 02/07/2013, 1 văn bản ủy quyền ngày 21/11/2013, 1 văn bản ủy quyền không rõ ngày) là chứng cứ chứng minh Tòa án bất chấp pháp luật thừa nhận bà Hồ Thị Bảo Châu là đại diện theo ủy quyền của SMI.

- Bản án sơ thẩm và phúc thẩm thể hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác nội dung đơn khởi kiện của ông Thành. Nghiêm trọng hơn, hai bản án thể hiện nội dung trình bày của SMI cho dù SMI vắng mặt tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Rất nghiêm trọng, không có tài liệu nào của SMI thể hiện SMI căn cứ Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT và Nghị định số 44/2003/NĐ-CP để cho rằng nghề lái xe thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Đặc biệt nghiêm trọng, những người tiến hành tố tụng đồng thời là những người tham gia tố tụng với tư cách là người tiếp tay cho hành vi vi phạm pháp luật của SMI.

- Biên bản hòa giải sơ thẩm ngày 18/7/2013 là chứng cứ chứng minh: (i) Khi tuyên án, Tòa án sơ thẩm mới công bố căn cứ Thông tư 46/2012/TT-BGTVT để xét xử là xâm phạm quyền được biết thông tin và tranh luận của ông Thành theo các Điều 58, 59 của BLTTDS; (ii) Khi tiến hành hòa giải, Tòa án sơ thẩm cố ý không thu thập chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng về người đại diện và thực hiện trái nguyên tắc hòa giải, nội dung hòa giải, trình tự hòa giải quy định tại Điều 180, 185 và 185a và khoản 7 Điều 57, khoản 3 Điều 73, khoản 2 Điều 74, Điều 85, 86, 87, 88, 94 của BLTTDS.

- Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không thu thập chứng cứ theo Đơn yêu cầu ngày 29/04/2014 của ông Thành.

- Bản án phúc thẩm, Văn bản số 1733/TATP-TLĐ ngày 04/07/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ ngày 25/08/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh (i) Tòa án không cung cấp Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/09/2014 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, văn bản ủy quyền ngày 21/11/2013 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 19/03/2014 của SMI, Quyết định không thay đổi người tiến hành tố tụng ngày 12/09/2014 của Hội đồng xét xử phúc thẩm cho ông Thành; (ii) Hội đồng xét xử phúc thẩm không thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành tại phiên tòa; (iii) Tòa án tùy tiện thay đổi người tiến hành tố tụng trái quy định của pháp luật tại các Điều 16, 46, 47, 49 của BLTTDS.

- Văn bản số 678/ TATP-TLĐ ngày 02/04/2014, Văn bản số 1733/TATP-TLĐ ngày 04/07/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ ngày 25/08/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Văn bản số 346/TAQBTh ngày 03/06/3013, Quyết định số 20/2013/QĐ-TA ngày 11/06/2013, Biên bản nghị quyết không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh là chứng cứ chứng minh (i) lý do không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án không thống nhất theo quy định của pháp luật và (ii) hành vi cố ý thực hiện trái pháp luật làm xâm phạm quyền của ông Thành theo quy định tại khoản 1 Điều 99, khoản 4 Điều 102, Điều 106 của BLLĐ là quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là yêu cầu SMI tạm ứng cho ông Thành một khoản tiền bồi thường để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của ông Thành hoặc bảo đảm việc thi hành án. (Chi tiết xem phần Bác bỏ các lý do không áp dụng BPKCTT tại Hồ sơ điện tử vụ án SMI - ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi).

- Hai bản án phúc thẩm có nội dung khác nhau, biên bản phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm phản ánh không đúng thực tế diễn biến phiên tòa sơ thẩm ngày 04/09/2013 và phúc thẩm ngày 12/09/2014, Quyết định số 474/TATP-TLĐ bác bỏ Văn bản số 1733/TATP-TLĐ là văn bản trả lời cuối cùng, hành vi không tiếp tục giải quyết khiếu nại và không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật là chứng cứ chứng minh yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng của ông Thành là có cơ sở.

- Căn cứ việc Hội đồng xét xử phúc thẩm nhiều lần kiên quyết không xem chứng cứ bổ sung của ông Thành, không ký cam kết tiến hành tố tụng đúng pháp luật, không thay đổi người tiến hành tố tụng, không cung cấp các văn bản khác theo yêu cầu của ông Thành tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/09/2014 cũng đủ cơ sở chứng minh đại diện của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én không kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng và đương sự khác của vụ án. Các nội dung trình bày ở trên đương nhiên bác bỏ ý kiến của Viện kiểm sát tại Bản án phúc thẩm và Biên bản phiên tòa phúc thẩm.

6. Không chủ động phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án

Thứ nhất, trong vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐ-PT ngày 9/12/2013 có hai quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp về lao động và quan hệ tranh về hành chính nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không giải quyết khiếu nại tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án trong trường hợp tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tranh chấp về lao động, bất chấp pháp luật và lạm quyền, Tòa án không thu thập và không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của ông Thành mà còn cố ý làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án.

Thứ hai, Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là bản án chỉ căn cứ các tài liệu bất hợp pháp, tình tiết vô hiệu, thông tin sai sự thật mà không căn cứ vào kết quả tranh tụng thấu tình đạt lý của ông Thành tại phiên tòa và có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; là bản án bị sửa chữa sau khi đã tuyên án và có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; là bản án được xét xử áp đặt theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, có kết luận và quyết định trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

Thứ ba, việc tiến hành tố tụng của Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại của các cơ quan tiến hành tố tụng và đương sự là cơ quan có thẩm quyền liên quan có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không được thực hiện theo quy định của pháp luật, không bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

Thứ tư, Văn bản số 2299/TATP-VP ngày 6/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là chứng cứ chứng minh: (i) Tòa án không chủ động phát hiện có vi phạm pháp luật trong Bản án phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 284 của BLTTDS để thông báo báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này; (ii) không bảo đảm quyền khiếu nại trong tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 24, điểm e khoản 1 Điều 40, Điều 24, điểm s Điều 58của BLTTDS và khoản 1 Điều 20, khoản 1 Điều 7, điểm k khoản 1 Điều 12 Luật khiếu nại; (iii) Tòa án chối bỏ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 13 của BLTTDS; (iv) việc trả lại Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 29/10/2014 là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại các khoản 1, 2, 4, 9 Điều 6 của Luật khiếu nại.

Thứ năm, việc ngày 18/08/2015 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lời miệng là không biết Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 của ông Thành đang ở đâu và ai xử lý đơn chứng minh Viện kiểm sát trốn tránh trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng tại Điều 13 của BLTTDS.

7. Sửa đổi, bổ sung Yêu cầu giải quyết khiếu nại trong Đơn khiếu nại ghi ngày 18/11/2014

1. Căn cứ khoản 2 Điều 17 và các điều 282, 283, khoản 2 Điều 284 của BLTTDS: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

2. Kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm và cách chức chức danh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Phó chánh án, Chánh án, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Hòa giải viên, Cán bộ tiếp dân đối với những người bị khiếu nại sau:

- Hòa giải viên lao động Nguyễn Văn Ngọc và Phạm Bình Phương Minh Hải, Trưởng phòng Nguyễn Văn Cang của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh; Cán bộ tiếp dân Nguyễn Đình Phi của Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh; Phó Chánh án Nguyễn Văn Châu, các Thẩm phán Trịnh Ngọc Thúy, Trần Xuân Thủy, Nguyễn Văn Xuân, Đỗ Giang, các Thư ký Phạm Thị Nguyên và Trần Thị Hiển của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; Chánh án Phạm Doãn Hiếu, các Thẩm phán Trần Đăng Tân và Lê Thị Hoài Yến, Thư ký Đoàn Quốc Dũng, các Hội thẩm nhân dân Mã Văn Trọng và Bùi Thị Cẩm Vân của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh; Kiểm sát viên Nguyễn Thị Én và Nguyễn Thị Thúy Phượng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

3. Căn cứ Điều 12 Luật Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Điều 13 Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ngày 16/8/2001: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra, quản lý và giám sát công tác giải quyết khiếu nại của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh, Phòng Lao động Thương Binh và Xã hội quận Bình Thạnh trong việc giải quyết khiếu nại của ông Thành.

8. Trích dẫn nội dung Văn bản số 777

Sau khi xem xét nội dung khiếu nại và căn cứ Luật khiếu nại, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 3 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khiếu nại, đơn khiếu nại của ông không thuộc thẩm quyền giải quyết của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh.

Ban thường trực Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh trả lại đơn và hướng dẫn ông gửi đơn khiếu nại đến Tòa án nhân dân tối cao để được giải quyết theo thẩm quyền.

9. Vi phạm thời hạn trả lời đơn; trả lại đơn khiếu nại là cố ý làm trái quy định của pháp luật

Nội dung 11, 12 ở dưới và Nội dung 7 ở trên chứng minh (i) ông Thành khiếu nại về Bản án phúc thẩm số 1189 ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với quyền của Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh là quyền phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; (ii) khiếu nại về các văn bản giải quyết khiếu nại và các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng, đương sự của vụ án là cơ quan và người có thẩm quyền liên quan là phù hợp với hoạt động giám sát của Mặt trận.

Nội dung 1, 2, 3, 4, 5, 6 ở trên chứng minh (i) Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; (ii) các văn bản giải quyết khiếu nại của Tòa án hai cấp, đương sự khác là cơ quan có thẩm quyền là các văn bản giải quyết khiếu nại trái pháp luật; (iii) những người tiến hành tố tụng có hành vi cố ý vi phạm pháp luật tố tụng nghiêm trọng; (iv) cán bộ, công chức khác có hành cố ý vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Cơ sở dữ liệu tại hệ thống thông tin ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi do ông Thành tạo lập cung cấp thông tin về bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, đơn khiếu nại và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu đương nhiên có giá trị pháp lý là chứng cứ chứng minh khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp.

Văn bản số 777 (i) không thể hiện khiếu nại của ông Thành thuộc trường hợp nào theo quy định tại Điều 11 của Luật khiếu nại, (i) thể hiện lý do không thụ lý giải quyết khiếu nại mâu thuẫn và trái với chức năng, nhiệm vụ và quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nghị định số 50/2001/NĐ-CP là giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước (iii) không được ban hành trong thời hạn 10 ngày kể từ nhận được đơn khiếu nại ngày 25/11/2014 là cố ý thực hiện trái quy định tại Điều 27 của Luật khiếu nại.

XÉT THẤY

10. Chứng cứ bác bỏ văn bản góp ý trái pháp luật, trái Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam của người không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Chỉ cần căn cứ Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 cũng đủ cơ sở kết luận SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì đương nhiên Bản án phúc thẩm là chứng cứ chứng minh các hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng.

Luật sư Tô Văn Chung không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại Đơn khiếu nại ngày 18/11/2014 của ông Thành, do đó, Văn bản đề ngày 18/07/2015 do Luật sư Tô Văn Chung ký (viết tắt là Văn bản góp ý) không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực pháp luật đối với việc giải quyết khiếu nại. Góp ý của Luật sư Tô Văn Chung thể hiện tại Văn bản góp ý được gửi kèm theo Văn bản số 777 là (i) không chính xác vụ việc, không có cơ sở, chủ quan và trái pháp luật; (ii) trái với Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; (iii) a dua, a tòng, hùa theo sai phạm, đồng lõa với thói vô cảm, tật vô trách nhiệm, vô liêm sỉ và đồng phạm với hành vi vi phạm pháp luật.

Nhắc lại, khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại có căn cứ và hợp pháp của ông Thành thể hiện dưới dạng thông tin dữ liệu tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi) đương nhiên bác bỏ Văn bản góp ý của cá nhân Luật sư Tô Văn Chung.

Yêu cầu Luật sư Tô Văn Chung (i) nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm không nói sai sự thật và trái pháp luật; (ii) tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư; (iii) nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; (iv) tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội. Yêu cầu vẫn có hiệu lực sau khi Luật sư Tô Văn Chung bị nghiêm cấm hành nghề luật sư.

11. Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước; phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân

Thứ nhất, Mặt trận Tổ Quốc Việc Nam thành phố Hồ Chí Minh là tổ chức (theo quy định tại khoản 1 Điều 1 của Luật MTTQVN và khoản 1 Điều 9 của Hiến pháp) có quyền phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (theo quy định tại khoản 2 Điều 284 của BLTTDS) thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của BLTTDS.

Thứ hai, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân nhân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân nhân quận Bình Thạnh, Ủy ban nhân dân và Phòng Lao động Thương binh và Xã Hội quận Bình Thạnh là các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 19 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Điều 10 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Điều 2 và Điều 12 của Luật MTTQVN, Điều 5, khoản 3 Điều 65 và Điều 66 của Luật khiếu nại, Điều 13 và Điều 15 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP.

Mặt trận Tổ Quốc Việc Nam thành phố Hồ Chí Minh là thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân theo quy định tại Điều 10 của Luật MTTQVN và Điều 12 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP, có nhiệm vụ giám sát hoạt động thi hành Hiến pháp và pháp luật của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, Hòa giải viên lao động và cán bộ, công chức khác của các cơ quan này theo quy định tại Điều 2 của Luật MTTQVN, Điều 67 của Luật khiếu nại.

Thứ ba, Mặt trận Tổ Quốc Việc Nam thành phố Hồ Chí Minh có quyền và trách nhiệm tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 10 của Luật MTTQVN; có quyền khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 24 của BLTTDS; có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông Thành và nhiệm vụ tập hợp, tổng hợp, nghiên cứu đơn khiếu nại của ông Thành để phản ánh, kiến nghị yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 2, khoản 5 Điều 7, Điều 12 của Luật MTTQVN.

Thứ tư, Mặt trận Tổ Quốc Việc Nam thành phố Hồ Chí Minh ngoài nhiệm vụ hướng dẫn ông Thành gửi đơn khiếu nại tới Tòa án nhân dân tối cao thì còn có quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 66 của Luật khiếu nại, khoản 2 Điều 12 của Luật MTTQVN, Điều 24 của Bộ luật tố tụng dân sự.

12. Cố ý tiếp tay cho các sai phạm là hành vi vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh đã biết (i) ông Thành đã gửi đơn khiếu nại và đơn đề nghị giám đốc thẩm tới Tòa án nhân dân tối cao, (ii) Tòa án nhân dân tối cao đang giải quyết đơn của ông Thành theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh vẫn cố ý trả lại Đơn khiếu nại ngày 18/11/2014 kèm theo Văn bản số 777 hướng dẫn việc ông Thành đã làm là gửi đơn khiếu nại đến Tòa án nhân dân tối cao thay vì thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là:

Như đã trình bày ở trên,

Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh có quyền phát hiện có vi phạm pháp luật trong Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh có nhiệm vụ phản ánh, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền và giám sát các cơ quan này giải quyết khiếu nại của ông Thành theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông Thành;

Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước. Thông qua việc giải quyết khiếu nại mà phát hiện Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân hai cấp, Phòng Lao động Thương và Xã hội quận Bình Thạnh, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh, những người tiến hành tố tụng, hòa giải viên, cán bộ tiếp dân, Chánh án, Phó Chánh án, Trưởng phòng có sai phạm thì phải phản ánh các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người bị giám sát và kiến nghị hình thức xử lý kỷ luật, hướng giải quyết vụ việc với các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh cố ý trả lại đơn khiếu nại của ông Thành mà không thực hiện chức năng, nhiệm vụvà quyền giám sát theo thẩm quyền là hành vi (i) tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan và người tiến hành tố tụng, cơ quan và người có thẩm quyền liên quan và (ii) cố ý thực hiện trái quy định của pháp luật.

KẾT LUẬN

Khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại có căn cứ và hợp pháp của ông Thành là phù hợp với hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh và đương nhiên bác bỏ Văn bản số 777. Đơn khiếu nại của ông Thành đương nhiên thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh.

Việc trả lại đơn khiếu nại là (i) trái với hoạt động giám sát cụ thể của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh tại Nội dung 11 và Nội dung 12 ở trên; (ii) hành vi cố ý không phản ánh các hành vi vi phạm pháp luật của những người và cơ quan bị khiếu nại tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; (iii) hành vi cố ý không kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật theo yêu cầu của ông Thành; (iv) không động viên ông Thành nhân danh Nhân dân thực hiện quyền giám sát và không bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông Thành; (v) hành vi cố ý tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng.

IV. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

1.    Thứ nhất, Đơn khiếu nại ngày 18/11/2014 được sửa đổi, bổ sung theo nội dung của Đơn này. Thứ hai, Đơn này có thể được sửa đổi, bổ sung trong quá trình giải quyết khiếu nại theo nguồn cung cấp thông tin tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi). Thứ ba, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm sử dụng nguồn thông tin dữ liệu do ông Thành cung cấp tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI để giải quyết khiếu nại và giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước và đại biểu dân cử bị khiếu nại ở trên. Thứ tư, kết quả của hoạt động giám sát là (i) kiến nghị tới các cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm và cách chức chức danh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Phó chánh án, Chánh án, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Hòa giải viên, Cán bộ tiếp dân đối với những người bị khiếu nại trên và (ii) Yêu cầu 5 của Đơn này.

2.    Trong việc giải quyết khiếu nại Đơn khiếu nại đề ngày 18/11/2014 của ông Thành thì (i) Luật sư Tô Văn Chung có thẩm quyền như thế nào? (ii) Văn bản đề ngày 18/07/2015 do Luật sư Tô Văn Chung ký có giá trị pháp lý như thế nào và có hiệu lực pháp luật theo điều khoản của văn bản pháp luật nào?

3.    Thôi công nhận Luật sư Tô Văn Chung là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh nếu Luật sư này là thành viên của Ủy ban Mặt trận.

4.    Cách chức chức danh Phó Chủ tịch Ban Thường trực và thôi công nhận là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh đối với ông Vũ Thanh Lưu.

Lý do: Là Phó Chủ tịch Ban Thường trực mà lại tùy tiện ký vào Văn bản số 777 hướng dẫn việc ông Thành đã thực hiện và trả lại đơn khiếu nại thay vì giám sát khiếu nại theo thẩm quyền. Nhưng không thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Không phản ánh các hành vi sai phạm, có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua.

5.    Căn cứ khoản 2 Điều 17 và 282, 283 và khoản 2 Điều 284 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

6.    Nếu không thực hiện Yêu cầu 5 của Đơn này thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh (i) có phải là tổ chức quy định tại khoản 1 Điều 9 của Hiến pháp và Điều 1 của Luật MTTQVN không? (ii) có nhiệm vụ giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh, Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và có nhiệm vụ cùng với Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông Thành quy định tại Điều 2 của Luật MTTQVN không? (iii) có quyền phát hiện có vi phạm pháp luật trong Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quy định tại khoản 2 Điều 284 của BLTTDS thì phải thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 285 của Bộ luật này không? (v) có phản ánh ý kiến “Chỉ cần căn cứ Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 cũng đủ cơ sở kết luận SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì đương nhiên Bản án phúc thẩm là chứng cứ chứng minh các hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng” của ông Thành với Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định tại Điều 2, khoản 5 Điều 7, Điều 10 của Luật MTTQVN không?

7.    Nếu không thực hiện Yêu cầu 1 của Đơn này thì Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh (i) có bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự tại Điều 24 của BLTTDS? (ii) có nhiệm vụ giám sát hoạt động của người bị khiếu nại ở trên và thông qua hoạt động giám sát của mình trên cơ sở khiếu nại của ông Thành có kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luât quy định tại Điều 2, Điều 12 của Luật MTTQVN, Điều 13, Điều 15, khoản 2 Điều 23 của Nghị định số 50/2001/NĐ-CP, Điều 5 của Luật khiếu nại, khoản 3 Điều 65, Điều 67 không?

8.    Khiếu nại của ông Thành là (i) khiếu nại về tranh chấp hành chính giữa ông Thành với người bị khiếu nại ở trên hay (ii) khiếu nại về tranh chấp lao động giữa ông Thành với SMI?

9.    Tại sao đến mãi đến ngày 10/08/2015 quá thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền quy định tại Điều 27 của Luật khiếu nại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh mới tùy tiện đưa ra lý do trái pháp luật thể hiện tại Văn bản số 777/MTTQ-BTT ngày 10/8/2015 là đơn khiếu nại của ông Thành không thuộc thẩm quyền giải quyết của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh?

Chân thành cám ơn và trân trọng kính chào!

Chúc Chủ tịch sức khỏe, trí tuệ, bản lĩnh, chí công vô tư, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

Văn bản số 777 ngày 10 tháng 08 năm 2015 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh


PHÚC ĐÁP

Văn bản góp ý trái pháp luật và trái Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
của
Luật sư Tô Văn Chung là người không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Chỉ cần căn cứ Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 cũng đủ cơ sở kết luận SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì đương nhiên Bản án phúc thẩm là chứng cứ chứng minh các hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng.

Luật sư Tô Văn Chung không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại Đơn khiếu nại ngày 18/11/2014 của ông Thành, do đó, Văn bản đề ngày 18/07/2015 do Luật sư Tô Văn Chung ký (viết tắt là Văn bản góp ý) không có giá trị pháp lý và không có hiệu lực pháp luật đối với việc giải quyết khiếu nại. Góp ý của Luật sư Tô Văn Chung thể hiện tại Văn bản góp ý được gửi kèm theo Văn bản số 777 là (i) không chính xác vụ việc, không có cơ sở, chủ quan và trái pháp luật; (ii) trái với Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; (iii) a dua, a tòng, hùa theo sai phạm, đồng lõa với thói vô cảm, tật vô trách nhiệm, vô liêm sỉ và đồng phạm với hành vi vi phạm pháp luật.

Nhắc lại, khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại có căn cứ và hợp pháp của ông Thành thể hiện dưới dạng thông tin dữ liệu tại Hồ sơ điện tử Vụ án SMI (ThuongHieuDoanhNghiep.VN/smi) đương nhiên bác bỏ Văn bản góp ý của cá nhân Luật sư Tô Văn Chung.

Yêu cầu Luật sư Tô Văn Chung (i) nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm không nói sai sự thật và trái pháp luật; (ii) tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư; (iii) nêu gương trong việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; (iv) tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội. Yêu cầu vẫn có hiệu lực sau khi Luật sư Tô Văn Chung bị nghiêm cấm hành nghề luật sư.

Luật sư Tô Văn Chung góp ý không chính xác, chủ quản và trái pháp luật
Góp ý của Luật sư Tô Văn Chung là không chính xác, chủ quan và trái pháp luật


Ông Lý Ngọc Thạch nói điêu, mị dân và bịp bợm vãi? Trước thời điểm chốt danh sách đại biểu Quốc hội khóa 14, ông Thạch hứa sẽ chuyển đơn của ông Thành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giải quyết. Đến nay, ông Thành vẫn chưa nhận được văn bản chuyển đơn của MTTQVN thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 20 tháng 09 năm 2016, ông Thạch trả lời ông Thành là hồ sơ khiếu nại của ông Thành vẫn do MTTQVN thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giải quyết.

MB94

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn