HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

BẢN ÁN PHÚC THẨM

Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Về việc: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”.

Bản án lao động sơ thẩm và phúc thẩm trong hồ sơ vụ án lao động số 91/2013/LĐPT là các bản án (1) có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, (2) có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, (3) có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật và (4) có kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.

Không chứng minh được lỗi của ông Thành theo Điều 87 của Bộ luật lao động thì đương nhiên lý do cho nghỉ việc tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế là lý do vô căn cứ và trái pháp luật.

Giả sử có thử việc thì 0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Nghề lái xe là lao động sơ cấp theo quy định tại khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế đương nhiên bị vô hiệu do trái khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Pháp luật lao động không quy định người lao động phải thực hiện nghĩa vụ thử việc và thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe thì đương nhiên ông Thành có quyền theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự là quyền bãi bỏ nội dung Tôi vào làm thử việc do nhầm lẫn pháp luật mà phát sinh theo nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) trái pháp luật tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế tại thời điểm phát sinh tranh chấp lao động ngày 26/3/2013.

Công ty Quốc tế đơn phương cho ông Thành nghỉ việc trái Điều 85, Điều 87 và điểm b khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 38 của Bộ luật lao động thì đương nhiên là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải tại điểm c khoản 1 Điều 84 của Bộ luật này trái pháp luật.

Thông tư số 46/2012/TT-TT-BGTVT chứng minh Tòa án không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Bộ luật lao động chứng minh Tòa án thực hiện trái khoản 4 Điều 166 của Bộ luật này do không tuyên bố nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định) tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế bị vô hiệu. Bộ luật dân sự chứng minh Tòa án thực hiện trái Điều 131 của Bộ luật này do không tuyên bố nội dung Tôi vào làm thử việc tại Biên bản hòa giải lao động bị bô hiệu. Bộ luật tố tụng dân sự chứng minh Tòa án thực hiện trái Điều 3 của Bộ luật này do không bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế. Lý do cho nghỉ việc theo hình thức sa thải vô căn cứ và trái pháp luật tại Quyết định số 18 chứng minh Điều 32 của Bộ luật lao động không phải là căn cứ pháp luật để giải quyết tranh chấp lao động của vụ án này. Nghiêm trọng hơn, Tòa án áp đặt ý chí chủ quan trái Điều 32 này làm phát sinh tranh chấp hành chính nhưng Tòa án không giải quyết tranh chấp hành chính. Danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành đã bị xâm phạm rất nghiêm trọng. Thực tiễn chứng minh ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm trái pháp luật theo ý chí chủ quan của Tòa án được ban hành.

Chi tiết, xem Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tùy tiện trả lại kèm theo Văn bản số 2299/TATP-VP ngày 6/11/2014. Sau đây là một phần nội dung của Đơn khiếu nại.

1. Căn cứ Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 3/9/2014:

a. Ông Thành nhận được hai bản án phúc thẩm có nội dung khác nhau tại dòng 18 trang 1. Một bản án thể hiện “Trong ngày 12/09/2014 tại trụ sở…”, một bản án thể hiện “Trong các ngày 23/07/2014 và ngày 12/09/2014 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh…”.

b. Ngày 30/05/2013, ông Thành không nộp đơn khởi kiện nào cho Tòa án như Bản án thể hiện tại dòng 9 trang 6. Thông báo số 07/TB-TAQBTh ngày 11/04/2013 của Tòa án sơ thẩm là Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đã vô hiệu Đơn khởi kiện ngày 4/4/2013 của ông Thành. Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 4/9/2013 là đơn khởi kiện có giá trị pháp lý duy nhất được ông Thành thừa nhận, nội dung của các đơn khởi kiện trước đó trái với nội dung của Đơn khởi kiện này đều bị bãi bỏ.

c. Bản án phúc thẩm thể hiện chưa đúng, không đầy đủ, không chính xác nội dung khởi kiện mà ông Thành đã trình bày tại Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 4/9/2013, Đơn kháng cáo ngày 19/9/2013 và sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2013, văn bản Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014, Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2014. Nghiêm trọng hơn, Bản án còn bịa đặt cả nội dung mà ông Thành không trình bày. Đặc biệt nghiêm trọng, Bản án không thể hiện nội dung việc khởi kiện mà ông Thành đã trình bày ở III trên. Bản án được mô tả ngắn gọn qua sáu câu đồng dao:

Ai mà dạ sói trơ trẽn rất điêu.
Lưỡi điêu không xương toàn lời sai trái.
Ai mà không nói có, có nói không.
Mặt dán vô liêm sỉ, đít ngồi liêm sỉ phán sai.
Chứng cứ viết gà, bản án viết vịt.
Tuyên án một đằng, bản án một nẻo.

d. Bản án phúc thẩm thể hiện không đúng, không đầy đủ, không chính xác 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế. Dòng 32-34 trang 5 của Bản án thể hiện thiếu thông tin và không chính xác lý do thể hiện tại Quyết định số 18, mặt khác, nội dung “… ông Thànhbáo giá mua lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông đã mua” là nội dung bị xuyên tạc, sai sự thật và mập mờ, gây nhầm lẫn cho người đọc cẩu thả, cơ hội, vô trách nhiệm, vô liêm sỉ, năng lực yếu kém.

e. Bản án phúc thẩm không thể hiện nội dung “ông Thành đã chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế không phải là lỗi tại văn bản Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014”.

f. Tại dòng 27 trang 4 Bản án phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt là Viện kiểm sát) chỉ dựa vào Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế để cho rằng “ông Thành có lỗi khi đổ xăng vào xe chạy dầu, báo giá lốp xe cao” là không thuyết phục, không khách quan, không có cơ sở và thiếu 1 lỗi so với 3 lỗi của Quyết định này. Thứ nhất, Quyết định này không phải là văn bản quy phạm pháp luật, Công ty Quốc tế không phải là cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thứ hai, 3 lỗi nêu trong Quyết định này không được chứng minh là lỗi của ông Thành. Thứ ba, xem điểm d và f Nội dung 4 và điểm f Nội dung 5 ở dưới.

g. Đoạn đầu trang 6 Bản án phúc thẩm cho rằng “Nếu giao cho ông Thành việc mua lốp xe thì việc này sẽ gây thiệt hạicho công ty” là hoàn toàn không có cơ sở. Thứ nhất, Bản án không thể hiện rõ ràng là “thiệt hại gì” và mâu thuẫn với Chủ tọa phiên tòa đã tuyên án là “thiệt hại về tiền”. Thứ hai, Tòa án không chứng minh được “Nếu giao cho ông Thành việc mua lốp xe thì việc này sẽ gây thiệt hại cho công ty (?)”. Thứ ba, ông Thành không phải là người có thẩm quyền quyết định việc mua lốp xe, sau khi ông Tổng giám đốc Công ty Quốc tế quyết định mua lốp xe có xuất xứ Thái Lan (made in Thailand) thì ông Thành cũng vẫn chỉ là người lái xe đi thay lốp cũ có xuất xứ Nhật Bản (made in Japan). Thứ tư, điểm c Luận cứ 7 Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2014 chứng minh Tòa án tùy tiện áp đặt ý chí chủ quan và xa rời thực tế. Thứ năm, chính bà Vũ Thị Phương là thông dịch viên của ông Tổng giám đốc đã thừa nhận lỗi là của bà Phương và bà Châu.

Hội đồng xét xử cho rằng “ông Thành là nhân viên của công ty, việc báo giá cần sát với giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường tại thời điểm báo giá” nhưng không chứng minh được căn cứ theo văn bản quy phạm pháp luật nào, nội dung thì chứa chấp rất nhiều mâu thuẫn. Thứ nhất, mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ mà ông Thành đã cung cấp để chứng minh việc ông Thành truyền đạt thông tin báo giá từ hãng Chevrolet đến Công ty Quốc tế là đúng sự thật. Thứ hai, mâu thuẫn với ý kiến của Viện kiểm sát là “ông Thành phải đảm bảo tính trung thực và chất lượng công việc”, việc truyền đạt đúng thông tin báo giá là đảm bảo tính trung thực, nguồn thông tin từ chính hãng là bảo đảm chất lượng công việc. Thứ ba, mâu thuẫn với ông Thành không phải là nhà quản lý giá thị trường. Thứ tư, mâu thuẫn với lốp xe có xuất xứ khác nhau thì đương nhiên phải có giá khác nhau - đó là thị trường. Thứ năm, mâu thuẫn với việc Tòa án không xác định được tại sao giá lốp xe của hãng Chevrolet lại cao hơn giá mà Công ty Quốc tế đã mua. Thứ sáu, Tòa án cũng không đưa ra được giá thị trường là giá nào, được quy định tại văn bản pháp luật nào và không chứng minh được giá lốp xe của hãng Chevrolet không phải là giá thị trường.

Nội dung “ông Thành là nhân viên của công ty, việc báo giá cần sát với giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường tại thời điểm báo giá. Giá mà ông Thành đưa ra là 5.900.000 đồng so với mức giá của Giám đốc mua là 3.520.000 đồng là đã có sự chênh lệch quá cao. Nếu giao cho ông Thành việc mua lốp xe thì việc này sẽ gây thiệt hạicho công ty” không phải là nội dung có giá trị pháp lý làm cơ sở kết luận lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua” nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế là lỗi của ông Thành. Thực tế, đọc kỹ nội dung này thì thấy nội dung này hoàn toàn không phải là kết luận lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế là lỗi của ông Thành mà chỉ là nội dung bịp bợm không có cơ sở pháp lý.

h. Đoạn cuối trang 5 của Bản án phúc thẩm, Hội đồng xét xử cho rằng “công việc lái xe phải qua các chương trình đào tạo bài bản. Kiến thức tối thiểu người lái xe cho công ty cần phải biết là xe chạy bằng nhiên liệu gì thì phải sử dụng nhiên liệu đó. Mặt khác, tại nắp bình nhiên liệu có ghi dòng chữ Diesel nên ông Thành cần phải biết việc đổ xăng vào xe chạy dầu là rất nguy hiểm” là nói máy móc, giáo điều, thói bề trên, áp đặt theo ý chí chủ quan, ăn ốc nói mò, ếch ngồi đáy giếng, vô căn cứ, xa rời thực tế. Thứ nhất, Hội đồng xét xử không chứng minh được nhận định của mình là có cơ sở, không chỉ ra được tài liệu nào là tài liệu mà ông Thành đã được học mâu thuẫn với ông Thành đã chỉ ra tài liệu duy nhất mà ông thành được học là 405 câu hỏi đáp thi sát hạch lái xe của Bộ Giao thông vận tải ban hành và thống nhất thực hiện toàn quốc. Thứ hai, Cơ sở đào đạo lái xe không dám xác nhận có nội dung và đã dạy cho ông Thành nội dung “cách phân biệt và nhận biết xe máy xăng và xe máy dầu khi đổ nhiên liệu”, giáo viên đã từng dạy ông Thành cũng không biết cách phân biệt và nhận biết xe máy xăng và xe máy dầu, Sở Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh không xác nhận có nội dung này trong tài liệu dạy lái xe. Thứ ba, ông Thành đã đến một số trung tâm bảo hành của một số hãng xe uy tín và thông dụng hỏi cách phân biệt và nhận biết xe máy xăng và xe máy dầu nhưng kỹ thuật viên của hãng cũng không biết và nói rằng phải mở động cơ xe ra mới biết, ông Thành học lái xe chứ không học sửa chữa xe, trong quá trình học lái xe ông Thành không được học cách mở động cơ xe, thực tế không biết gì về động cơ mà tự nhiên mang đồ nghề ra mở tung động cơ xe ra là hành động phá hoại, ông Thành đã hỏi nhân viên bán hàng của chính hãng Chevrolet thì họ cũng không biết cách phân biệt và nhận biết xe Captival máy xăng và xe Captival máy dầu. Thứ tư, Hội đồng xét xử không xác định được nguyên nhân tại sao thực tế có rất nhiều tài xế, chủ xe, người bán xăng đổ nhầm xăng vào xe máy dầu, và ngược lại, đổ nhầm dầu vào xe máy xăng. Thứ năm, Hội đồng xét xử cố ý phớt lờ, không xem xét tình tiết ông Thành chỉ biết trên nắp bình nhiên liệu có ghi dòng chữ Diesel vào ngày 7/3/2013, sau 1 ngày sự việc xảy ra vào ngày 6/3/2013, tình tiết người bán xăng là người mở nắp bình nhiên liệu và đổ xăng là tình tiết công khai mà mọi người đều biết, đặc biệt là tình tiết ông Tổng Giám đốc Công ty Quốc tế đã kết luận sự việc là không sao và không quy kết lỗi cho bất cứ người nào vào ngày 7/3/2013. Thứ sáu, ông Thành không được ai cảnh báo việc đổ xăng vào xe máy dầu là rất nguy hiểm và sự thật là xe máy dầu Captival biển số 52LD-4812 của Công ty Quốc tế sau khi được đổ xăng vẫn chạy bình thường.

i. Tại trang 6 Bản án phúc thẩm thể hiện “ông Thành trình bày và ông Thành thừa nhận … làm thử việc lái xe” là không đúng và không chính xác. Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 4/9/2013, ông Thành không trình bày và không thừa nhận nội dung này. Nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế và nội dung “Tôi vào làm thử việc tại…” tại Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/02/2013 của Cơ quan hòa giải lao động là các nội dung vô hiệu theo quy định tại Điều 9 Bộ luật lao động, Điều 4, điểm c khoản 1 Điều 122, Điều 127, Điều 131 Bộ luật dân sự, và theo chứng minh tại điểm c, d, e Luận cứ 2 ở dưới.

k. Bản án phúc thẩm áp đặt “thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày” là hoàn toàn trái pháp luật, không có cơ sở, là lạm quyền áp đặt theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng. Thứ nhất, Tòa án không xác định được ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề hay giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo lái xe hạng B2 (xem đoạn cuối trang 6 của Bản án), Bản án không thể hiện rõ ràng lái xe là công việc có chức danh nghề cần trình độ trung cấp, hay lái xe là công nhân kỹ thuật, hay lái xe là nhân viên nghiệp vụ, hay lái xe là công việc có chức danh nghề cần trình độ trung cấp và là công nhân kỹ thuật và là nhân viên nghiệp vụ (ba trong một), Tòa án không xác định được thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận là bao nhiêu ngày. Thứ hai, khoản 2 Điều 9 Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT ngày 7/11/2012 quy định rõ “Người có nhu cầu cấp giấy phép lái xe… được… cấp chứng chỉ sơ cấp nghề”, ông Thành được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề. Sơ cấp và trung cấp là hai cấp bậc hoàn toàn khác nhau. Lao động sơ cấp nghề và công việc có chức danh nghề cần trình độ trung cấp là hai đối tượng lao động hoàn toàn khác nhau. Lái xe là lao động giản đơn, theo quy định tại Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP thì lao động giản đơn là lao động khác và trong trường hợp nếu có thỏa thuận thử việc thì thời gian thử việc cũng không được vượt quá 6 ngày. Lái xe không phải là công việc có chức danh nghề cần trình độ trung cấp, công nhân kỹ thuật hay nhân viên nghiệp vụ, cũng không phải là ba trong một nên đương nhiên không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Thứ ba, liêm sỉ đổ lá khoai, chứng minh và chứng cứ đổ đầu vịt, tranh luận gảy tai trâu, Bản án phúc thẩm thể hiện mâu thuẫn với văn bản Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014 và văn bản Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2013 của ông Thành đã chứng minh nội dung thử việc là nội dung vô hiệu. Thứ tư, thời gian thử việc được xác định theo thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá thời gian thử việc do pháp luật quy định, hai bên không thỏa thuận thời gian thử việc thì đương nhiên thời gian thử việc là 0 ngày. Thứ năm, Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế đơn phương áp đặt nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” mâu thuẫn với pháp luật không quy định người lao động và người sử dụng lao động phải thực hiện thời gian thử việc khi giao kết hợp đồng lao động thì đương nhiên ông Thành không có nghĩa vụ phải thực hiện thời gian thử việc.

Dựa vào phương pháp toán học nào để Tòa án áp đặt “thời gian thử việc của ông Thành là 30 ngày” như Bản án phúc thẩm thể hiện tại hai dòng cuối trang 6?

l. Tại dòng 27 trang 4 Bản án phúc thẩm, Viện kiểm sát cho rằng “ông Thành đang trong thời gian thử việc” nhưng không đưa ra các chứng cứ chứng minh ý kiến của mình là có căn cứ và hợp pháp.

m. Tại dòng 11-15 trang 4 Bản án phúc thẩm, Viện kiểm sát cho rằng “Thẩm phán thụ lý và giải quyết vụ án đúng theo quy định của pháp luật…” là mâu thuẫn với: Thứ nhất, ông Nguyễn Xuân Tùng - Chánh tòa Tòa lao động khẳng định Tòa án không đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn luật định là vi phạm tố tụng. Thứ hai, các đơn khiếu nại của ông Thành khiếu nại về quyết định và hành vi hành chính của cơ quan, người có thẩm quyền, khiếu nại về thụ lý không đúng việc khởi kiện và không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thứ ba, các nội dung khiếu nại trình bày tại đơn này.

n. Tại dòng 16 trang 4 Bản án phúc thẩm, Viện kiểm sát cho rằng “Đương sự vắng mặt hợp lệ. Giấy ủy quyền của bị đơn là hợp pháp” là hoàn toàn không có cơ sở. Thứ nhất, ông Thành đã chứng minh hai giấy ủy quyền có cùng nội dung nhưng khác nhau về hình thức ngày 2/7/2013 của Bị đơn là chứng cứ chứng minh bà Hồ Thị Bảo Châu không phải là đại diện hợp pháp của Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế. Thứ hai, Tòa án trả lời miệng là bị đơn không cung cấp bất cứ tài liệu gì trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Thứ ba, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 12/9/2014, Chủ tọa phiên tòa công bố để lộ ra việc ủy quyền của bị đơn là không hợp pháp và Tòa án không cung cấp Giấy ủy quyền ngày 25/11/2013 của Bị đơn, Đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Hồ Thị Bảo Châu ngày 19/3/2014 cho ông Thành, cũng không cho ông Thành xem cả hai văn bản này. Thứ năm, mâu thuẫn với điểm b Nội dung 1 ở trên, điểm a Nội dung 4, điểm c Nội dung 5 ở dưới.

o. Tại dòng 29-31 trang 4 Bản án phúc thẩm, Viện kiểm sát cho rằng “Bản án sơ thẩm số 13/2013 ngày 04 tháng 09 năm 2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử là có căn cứ” là hoàn toàn trái pháp luật và mâu thuẫn với: Thứ nhất, Đơn kháng cáo ngày 19/9/2013, văn bản Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014, Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2013 của ông Thành. Thứ hai, điểm f Nội dung 4 ở dưới chứng minh Bản án sơ thẩm là bản án được xét xử không có căn cứ. Thứ ba, tại Phiên tòa phúc thẩm ngày 12/9/2014, Viện kiểm sát cũng không cho ông Thành tranh luận nên chưa được nghe phần tranh luận về tranh chấp hành chính giữa ông Thành và Tòa án. Do đó, ý kiến của Viện kiểm sát là hoàn toàn không có cơ sở.

p. Tại dòng 26-32 trang 2 Bản án phúc thẩm trình bày “Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế trình bày:… Do đó, Công ty Quốc tế không chấp nhận ký hợp đồng lao động với ông Thành” mâu thuẫn với nội dung “Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Hồ Thị Bảo Châu (vắng mặt)” thì ai trình bày ý kiến của Công ty Quốc tế tại phiên tòa (?), mâu thuẫn với thực tế hai bên đang thực hiện hợp đồng lao động và Công ty Quốc tế đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật dẫn đến tranh chấp lao động, mâu thuẫn với không có tài liệu hợp pháp nào của Công ty Quốc tế trình bày nội dung đó.

q. Đoạn 2 trang 5 Bản án phúc thẩm thể hiện “yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng của ông Thành là không có căn cứ” là hoàn toàn mâu thuẫn với: Thứ nhất, căn cứ pháp lý đã được liệt kê ngay trong văn bản Cam kết. Thứ hai, nội dung Cam kết 1 chứng minh những người tiến hành tố tụng không tuân theo pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Thứ ba, các hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng đã được ông Thành tố cáo tại các đơn khiếu nại nhưng vẫn chưa được giải quyết. Thứ tư, Tòa án không giải quyết khiếu nại theo pháp luật và Quyết định giải quyết khiếu nại số 474 ngày 25/8/2013 không phải là quyết định giải quyết khiếu nại hợp pháp cuối cùng. Thứ năm, chứng cứ ngay tại phiên tòa phúc thẩm là Chủ tọa phiên tòa công bố Quyết định từ chối thay đổi người tiến hành tố tụng đã được soạn thảo từ trước, quyết định không có chữ ký và không được đóng dấu nhưng Chủ tọa vẫn tuyên bố là “những người tiến hành tố tụng đã ký tên và đóng dấu”, Chủ tọa thay mặt những người tiến hành tố tụng (1) từ chối cung cấp Quyết định này cho ông Thành, (2) từ chối cung cấp cho ông Thành giấy ủy quyền của bị đơn và đơn đề nghị xét xử vắng mặt của bà Hồ Thị Bảo Châu, (3) từ chối yêu cầu ghi âm, ghi hình phiên tòa của ông Thành mà không đưa ra bất cứ lý do nào. Thứ sáu, chứng cứ sau khi tuyên án phúc thẩm là (1) Tòa án không cho ông Thành ghi ý kiến và ký vào biên bản phiên tòa và (2) Bản án phúc thẩm có nội dung mâu thuẫn và xét xử trái pháp luật, bị sửa đổi so với nội dung tuyên án, trình bày sai nội dung của đương sự trình bày và sai sự thật.

2. Tài liệu, chứng cứ, áp dụng trái pháp luật, lạm quyền, áp đặt ý chí chủ quan

a. Tòa án không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào của cơ sở đào tạo lái xe, Sở Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh hay Bộ Giao thông vận tải để chứng minh tài liệu dạy lái xe có nội dung “cách phân biệt và nhận biết xe máy xăng và xe máy dầu khi đi đổ nhiên liệu cho xe, hậu quả của việc đổ nhầm xăng vào xe máy dầu và đổ nhầm dầu vào xe máy xăng” và ông Thành đã được học nội dung này. Do đó, không có cơ sở áp đặt ông Thành có lỗi đổ xăng vào xe chạy dầu.

b. Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ngày 24/4/2013 của Cơ quan hòa giải lao động là Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh có nhiều mâu thuẫn và không phải là chứng cứ chứng minh ông Thành thừa nhận nội dung “làm thử việc”. Tuy nhiên, Biên bản hòa giải tranh chấp lao động này là chứng cứ chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế không phải là lỗi của ông Thành. Cụ thể:

- Nội dung “làm thử việc” thể hiện tại Biên bản này là nội dung bị nhầm lẫn về mặt pháp luật và là nội dung bị vô hiệu. Ngày 10/4/2014, ông Thành đã có đơn khiếu nại gửi tới Cơ quan hòa giải lao động để khiếu nại về Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn, ông Thành đã gửi đơn này cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kèm theo Đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ ngày 29/4/2014. Căn cứ khoản 2 Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự, Cơ quan hòa giải lao động không phản đối nội dung mà ông Thành thể hiện trong đơn khiếu nại thì đơn khiếu nại là chứng cứ chứng minh nội dung “làm thử việc” tại Biên bản này là nội dung vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự.

- Công ty Quốc tế áp đặt 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lý do cho ông Thành nghỉ việc theo hình thức sa thải trái pháp luật. Ông Thành khiếu nại lý do chấm dứt hợp đồng trái luật. Cơ quan hòa giải lao động áp đặt việc làm thử không đạt yêu cầu là lý do, mâu thuẫn với nội dung “Công ty Quốc tế không chứng minh được 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành” tại dòng 3-4 trang 2 từ dưới lên của chính Biên bản này. Tòa án áp đặt việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận là lý do nhưng không chứng minh được hai bên có thỏa thuận việc làm thử là gì?.

- 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành thì đương nhiên “lý do ông Thành gây ra 3 lỗi do Công ty Quốc tế áp đặt” không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp.

c. Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế không phải là chứng cứ chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành, cũng không phải là chứng cứ chứng minh hai bên có thỏa thuận về việc làm thử hay thời gian thử việc. Ngược lại, Quyết định này là chứng cứ chứng minh Công ty Quốc tế đã tùy tiện và đơn phương áp đặt 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lý do để đơn phương chấm dứt hợp đồng theo hình thức sa thải trái pháp luật, Quyết định này cũng là chứng cứ chứng minh hai bên không thỏa thuận về thời gian thử việc và việc làm thử lái xe. Do đó, Viện kiểm sát và Tòa án căn cứ vào Quyết định này để áp đặt theo ý chí chủ quan 2 trong 3 lỗi nêu trong Quyết định này là lỗi của ông Thành, ông Thành được nhận vào làm thử việc lái xe và đang trong thời gian thử việc là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và trái với hợp đồng lao động miệng mà hai bên đã giao kết ngày 26/2/2013 (xem nội dung hợp đồng tại Chứng cứ 5 của Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014 và Luận cứ 2 của Tranh luận phúc thẩm ngày 12/9/2014).

d. Căn cứ điểm i Nội dung 1 ở trên, điểm b và c trên. Tòa án không tuyên bố nội dung “chưa hết thời gian thử việc theo qui định” tại Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế và nội dung “làm thử việc” tại Biên bản hòa giải tranh chấp lao động của Cơ quan hòa giải lao động là nội dung vô hiệu là Tòa án vi phạm khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động.

Yêu cầu 26 của Đơn khiếu nại ngày 29/10/2014 bị Tòa án trả lại kèm theo Văn bản số 2299 yêu cầu giải quyết khiếu nại như sau:

Tại dòng 7 trang 6, Bản án phúc thẩm thể hiện “có thể thấy rằng công việc của ông Thành đã không đạt yêu cầu thử việc”. Có thể nghĩa là có thể đúng, có thể sai, có thể có thử việc, có thể không có thử việc, có thể đạt yêu cầu thử việc, có thể không đạt yêu cầu thử việc, việc xét xử không đảm bảo chính xác. Tòa án cũng không xác định được là đúng hay sai, có hay không, đạt hay không đạt. Sau khi trả lời các câu hỏi 5, 9, 10, 14, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 27 thì:

a) Tòa án có tâm phục, khẩu phục thừa nhận đã lạm quyền áp đặt “có thể thấy rằng công việc của ông Thành đã không đạt yêu cầu thử việc” theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng không?

b) Tại sao Tòa án tùy tiện áp đặt ông Thành làm việc không đạt yêu cầu mâu thuẫn với lý do ông Thành gây ra 3 lỗi của Công ty Quốc tế áp đặt không có cơ sở? Tại sao Tòa án không yêu cầu Công ty Quốc tế chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành? Tòa án có tâm phục, khẩu phục thừa nhận các lý do của Tòa án, Cơ quan hòa giải lao động và Công ty Quốc tế đều không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp không?

c) Có thể thấy rằng Thư ký Tòa án có cơ hội sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán có nghĩa là không chắc chắn rằng Thư ký Tòa án sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán. Thư ký Phạm Thị Nguyên mới được nhận vào đội ngũ cán bộ Tòa án từ đầu năm 2014 nhưng đã cùng với Thư ký Trần Thị Hiển có hành vi bất chấp pháp luật và gian dối rất chuyên nghiệp thì tại sao Tòa án bao che cho những hành vi lạm quyền sai trái nghiêm trọng đó? Cán bộ Tòa án mà không có bản lĩnh phê bình các sai phạm của đồng nghiệp thì Tòa án hy vọng gì ở cán bộ Nguyên và Thư ký Hiển mà không sa thải Thư ký Phạm Thị Nguyên và cán bộ Trần Thị Hiển?

e. Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 4/9/2014 không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên đương nhiên không phải là chứng cứ. Mặt khác, ông Thành đã kháng cáo toàn bộ bản án và chứng minh Bản án sơ thẩm là bản án được xét xử trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Ngày 16/4/2014, ông Thành đã có đơn yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ gửi tới Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, trong đơn ông Thành đã tố cáo các sai phạm của Tòa án, ông Thành cũng đã gửi đơn này cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kèm theo Đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ ngày 29/4/2014. Căn cứ khoản 2 Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án sơ thẩm không phản đối nội dung mà ông Thành thể hiện trong đơn khiếu nại thì đơn khiếu nại là chứng cứ chứng minh Bản án sơ thẩm đã giải quyết sai việc khởi kiện của ông Thành và là bản án vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Viện kiểm sát cho rằng “Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ” là thông đồng với Tòa án phúc thẩm và bao che cho những sai phạm của Tòa án sơ thẩm và mâu thuẫn với Văn bản số 678 của Tòa án phúc thẩm trả lời rằng Tòa án sơ thẩm đã giải quyết sai việc khởi kiện của ông Thành, mâu thuẫn với Bản án phúc thẩm đã sửa lại việc khởi kiện theo đúng yêu cầu của ông Thành.

f. Tòa án áp dụng Điều 32 Bộ luật lao động để cho rằng Công ty Quốc tế có quyền ban hành Quyết định số 18 trong thời gian thử việc 30 ngày là hoàn toàn trái pháp luật. Thứ nhất, mâu thuẫn với Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP là thời gian thử việc không được quá 6 ngày trong trường hợp nếu hai bên có thỏa thuận thử việc. Thứ hai, hai bên không thỏa thuận thử việc thì đương nhiên thời thử việc là 0 ngày và ông Thành không có nghĩa vụ phải thực hiện thử việc. Thứ ba, Luận chứng 3 và 4 của Chứng minh và chứng cứ sửa đổi, bổ sung ngày 3/9/2014 chứng minh ông Thành không áp dụng Điều 32 Bộ luật lao động để khởi kiện tranh chấp lao động.

g. Theo Điều 163 Bộ luật tố tụng dân sự thì trong vụ án này có hai quan hệ tranh chấp, một quan hệ tranh chấp về lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế, một quan hệ tranh chấp về hành chính giữa ông Thành và Tòa án. Quan hệ tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành trong quan hệ tranh chấp về lao động. Tuy nhiên, bất chấp pháp luật, Tòa án đã không xem xét và giải quyết quan hệ tranh chấp về hành chính theo đúng quy định của pháp luật mà lại vội vàng đưa vụ án ra xét xử theo ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

3. Kết luận

Bất chấp pháp luật, Tòa án đã ban hành bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng, ngang nhiên làm sai lệch thông tin hồ sơ vụ án, không thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự, không giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật, lạm quyền không cho ghi âm, ghi hình phiên tòa, từ chối thay đổi người tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng, không cho đương sự ghi ý kiến và ký vào biên bản phiên tòa.

Tòa án chỉ căn cứ Quyết định số 18 của Công ty Quốc tế để áp đặt (1) 2 trong 3 lỗi nêu tại Quyết định này là lỗi của ông Thành, (2) ông Thành làm việc không đạt yêu cầu theo ý chí chủ quan của Công ty Quốc tế và những người tiến hành tố tụng là không có cơ sở, không hợp pháp và không xem xét đầy đủ tài liệu, chứng cứ, chứng minh và tình tiết của vụ án. Nghiêm trọng hơn, Tòa án chỉ căn cứ Quyết định số 18 của Công ty Quốc mà không căn cứ các tài liệu, chứng cứ, chứng  minh của ông Thành là không đảm bảo xét xử vô tư, công bằng, chính xác và đúng pháp luật. Rất nghiêm trọng, Tòa án cố ý áp dụng sai và trái pháp luật, lợi dụng sự nhầm lẫn pháp luật của ông Thành để áp đặt nội dung thử việc theo ý chí chủ quan mâu thuẫn với tình tiết thử việc vô hiệu, làm sai lệch thông tin vụ án và xét xử trái pháp luật. Do đó, tuyên xử của Tòa án không phải là quyết định có căn cứ và hợp pháp, bản án sơ thẩm và phúc thẩm là các bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Tòa án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo bản án sơ thẩm của ông Nguyễn Đức Thành và giữ nguyên bản án sơ thẩm là (1) lạm quyền xét xử theo ý chí của quan của người tiến hành tố tụng và (2) hành vi vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng nhằm bao che các sai phạm của Tòa án sơ thẩm và (3) xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

Bản án phúc thẩm - trang 1
Bản án phúc thẩm - trang 1
Bản án phúc thẩm - trang 2
Bản án phúc thẩm - trang 3
Bản án phúc thẩm - trang 4
Bản án phúc thẩm - trang 5
Bản án phúc thẩm - trang 6
Bản án phúc thẩm - trang 7
Bản án phúc thẩm - trang 8

MH48

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn