HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG SƠ THẨM VÀ PHÚC THẨM. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành. Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế (SMI) - Hotline: 0912822628
Thương Hiệu Doanh Nghiệp là cái tên dễ nhớ, gần gũi và Thương Hiệu là mục tiêu chung của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi hội tụ Thành công - Thịnh vượng - Phồn vinh của các doanh nghiệp. Thương Hiệu Doanh Nghiệp là nơi tôn vinh và khẳng định đẳng cấp thương hiệu của doanh nghiệp thương hiệu.

HỒ SƠ VỤ ÁN LAO ĐỘNG

Về việc: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức Thành

Bị đơn: Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (Viết tắt là Công ty Quốc tế hoặc SMI)

Cơ quan hòa giải lao động: Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh

Tòa án sơ thẩm: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh

Tòa án phúc thẩm: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về lao động giữa Nguyên đơn và Bị đơn; Tranh chấp về hành chính giữa Nguyên đơn và Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có thẩm quyền liên quan.

Chứng minh và chứng cứ: HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng được lỗi của ông Thành thì chỉ cần Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18/QĐ/2013 của SMI cũng đủ chứng cứ chứng minh SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Tóm tắt nội dung án oan sai: Ông Thành vẫn  hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Tòa án phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm chứng minh Tòa án hai cấp đã không căn cứ chứng cứ và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành mà chỉ căn cứ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty Quốc tế để giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

- Hồ sơ vụ án lao động sơ thẩm số 56/2013/TLLĐ-ST ngày 30/5/2013 và vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 có tài liệu không hợp pháp nhưng được sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án; có tài liệu chứng minh yêu cầu khởi kiện của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp nhưng bị cố ý bỏ qua theo ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng; không có tài liệu, chứng cứ bổ sung của ông Thành vì Tòa án hai cấp không thực hiện thu thập tài liệu, chứng cứ và Tòa án phúc thẩm không lập biên nhận tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của ông Thành.

- Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 và Bản án phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/09/2014 là các bản án được xét xử trái pháp luật và theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.


Án oan sai: Ai làm gì được ta?

Tòa án lạm quyền tùy tiện thay đổi thẩm phán phụ nhưng không tuân thủ pháp luật thay đổi người tiến hành tố tụng theo yêu cầu có căn cứ và hợp pháp của đương sự là không công bằng.

Cản trở việc khởi kiện bằng yêu cầu Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản sao hợp đồng miệng. Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là chứng cứ chứng minh hợp đồng miệng được Nguyên đơn giao nộp cho Tòa án ngay từ khi nộp đơn khởi kiện nhưng Tòa án lại trả lời khiếu nại rằng Nguyên đơn không cung cấp các chứng cứ theo yêu cầu... chỉ là hai trong số nhiều hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền.

Lạm quyền tiếp tay cho lý do trái Điều 87 của Bộ luật lao động của Công ty Quốc tế nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng và Cơ quan hòa giải lao động lẩn trốn yêu cầu xử lý kỷ luật theo hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với những cán bộ có sai phạm và khai trừ đảng đối với những đảng viên có sai phạm.

Ta là Hội đồng xét xử, ta là Thẩm phán, ta là Phó Chánh án, ta là Chánh án, ta làm theo ý chí chủ quan của ta chứ cần gì phải tuân thủ pháp luật, ai làm gì được ta? Ai? Không ai? Vậy thì ta cứ hồn nhiên vi phạm pháp luật nghiêm trọng, thản nhiên ra quyết định trái pháp luật rất nghiêm trọng và ngang nhiên ban hành bản án trái pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Vụ án oan sai này là minh chứng cho tuyên bố bất chấp pháp luật của ta.

  
Lý do không được chứng minh là lý do có căn cứ và hợp pháp


Căn cứ Điều 87 của BLLĐ và Điều 80 của BLTTDS thì
ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi và
Biên bản hòa giải lao động và Quyết định số 18 là chứng cứ chứng minh SMI đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.


“Xe Captival 52LD-4812 máy dầu bị đổ nhầm xăng vẫn chạy bình thường”


Chữ ký trong Quyết định số 18 và Giấy ủy quyền khác nhau


Lốp cũ xe CAPTIVAL của Nhật (MADE IN JAPAN)


Lốp mới xe CAPTIVAL của Thái Lan (THAILAND)


Nhân chứng xác nhận báo giá của mình

(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung vô hiệu theo quy định của pháp luật
(chưa hết thời gian thử việc theo qui định) là nội dung bị vô hiệu do trái pháp luật

THÔNG TIN MỚI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
QUẢNG CÁO - LIÊN KẾT
Võ Thuật


QUẢNG CÁO

0912 82 2628

Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của
Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh
(Viết tắt là Văn bản số 451)

Văn bản số 451 đề ngày 27/6/2014 nhưng đến ngày 19/6/2015 ông Thành mới nhận được 2 bản sao của Văn bản này tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh. Ông Thành khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên tại Biên bản hòa giải lao động ngày 24/4/2013 có nhiều mâu thuẫn. Biên bản hòa giải lao động không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội lại chỉ căn cứ Biên bản này để ban hành Văn bản số 451. Nội dung của Văn bản này thể hiện việc giải quyết khiếu nại không được thực hiện theo quy định của pháp luật, không bảo đảm nguyên tắc khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời.

Văn bản số 451 được ban hành trước khi diễn ra các phiên tòa xét xử phúc thẩm ngày 23/7/2014 và ngày 12/9/2014 nhưng Tòa án phúc thẩm là Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không tiến hành thu thập Văn bản này theo yêu cầu của ông Thành tại Đơn yêu cầu thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ ngày 29/4/2014.

Tại Văn bản số 451, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội cho rằng “ông Thành yêu cầu Hòa giải viên tiến hành hòa giải lại” mâu thuẫn với yêu cầu của ông Thành yêu là: Thứ nhất, Hòa giải viên xác nhận các tình tiết có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án; Thứ hai, Hòa giải viên giải thích làm rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên tại Biên bản hòa giải lao động;

Phòng Lao động Thương binh và Xã hội cho rằng “đã hết thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành” để từ chối cung cấp tài liệu, chứng cứ là văn bản giải quyết khiếu nại là hành vi cản trở quyền thu thập tài liệu, chứng cứ của ông Thành đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành trong việc giải quyết vụ án tại Tòa án.

Đơn khiếu nại ngày 14 tháng 07 năm 2015

Biên nhận đơn số 732/BN-TCD ngày 14 tháng 7 năm 2015 của UBND quận Bình Thạnh

I. NỘI DUNG KHIẾU NẠI

CĂN CỨ

- Căn cứ Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh;

- Căn cứ việc Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh sử dụng Biên bản hòa giải ngày 24/4/2013 của Phòng LĐTBXH quận Bình Thạnh làm căn cứ giải quyết vụ án trái pháp luật;

- Căn cứ việc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh căn cứ Bản án sơ thẩm số 13/2013/LĐ-ST ngày 04/09/2013 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh để trả lời khiếu nại tại Văn bản số 678/TATP-TLĐ ngày 02/04/2014 (Văn bản số 678);

- Căn cứ Đơn khiếu nại ngày 27/3/2013 của ông Thành về việc “bị Công ty TNHH Sài Gòn đồ gỗ Quốc tế đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật” (V/v: Lý do chấm dứt hợp đồng trái luật);

- Căn cứ việc ông Thành yêu cầu Hòa giải viên xác nhận những tình tiết có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án tại Đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 của ông Thành khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn;

- Căn cứ việc ông Thành yêu cầu xử lý kỷ luật những người có hành vi cản trở quyền thu thập chứng cứ của ông Thành tại Đơn khiếu nại ngày 21/5/2014 và sửa đổi, bổ sung ngày 26/5/2014 của ông Thành khiếu nại hành vi vi phạm pháp luật của người và cơ quan có thẩm quyền;

- Căn cứ Bộ luật dân sự (BLDS); Bộ luật tố tụng dân sự (Bộ luật TTDS) sửa đổi, bổ sung; Bộ luật lao động (BLLĐ) sửa đổi, bổ sung; Luật khiếu nại (LKN); Các thông tư và nghị định liên quan;

- Căn cứ thông tin và tài liệu của hồ sơ vụ án lao động phúc thẩm số 91/2013/LĐPT ngày 09/12/2013 mà ông Thành có được số hóa tại địa chỉ ThuongHieuDoanhNghiep.vn/smi;

NHẬN THẤY

Quy định của pháp luật:

- Khoản 5 Điều 3 của Luật khiếu nại quy định về áp dụng pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại quy định:

5. Trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì áp dụng theo quy định của luật đó.

- Khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 158 của Bộ luật dân sự quy định:

Tính liên tục của thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự 

1. Thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự có tính liên tục từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; nếu có sự kiện làm gián đoạn thì thời hiệu phải được tính lại từ đầu, sau khi sự kiện làm gián đoạn chấm dứt.

2. Thời hiệu hưởng quyền dân sự, miễn trừ nghĩa vụ dân sự bị gián đoạn khi có một trong các sự kiện sau đây:

a) Có sự giảiquyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyềnđối với quyền, nghĩa vụ dân sự đang được áp dụng thời hiệu;

- Điều 161 của Bộ luật dân sự quy định vềThờ i gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự”

Thời gian không tính vàothời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.

Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Trở ngại khách quanlà những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình.

- Điều 9 của Luật Khiếu nại về “Thời hiệu khiếu nại”

Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.

- Khoản 1 và 4 Điều 56 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Đương sự trong vụ án dân sự”:

1. Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Điều 65 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Người làm chứng”:

Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án có thể được Toà án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng.

- Điều 24 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự”:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.

- Điều 4 của Luật khiếu nại về “Nguyên tắc khiếu nại và giải quyết khiếu nại” quy định:

Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời.

- Khoản 8 và khoản 11 Điều 2 của Luật khiếu nại quy định:

8. Quyết định hành chínhvăn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành để quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.

11. Giải quyết khiếunại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.

- Điểm đ khoản 1 Điều 12 của Luật khiếu nại về “Quyền của người khiếu nại” quy định:

đ) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho người giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

- Điểm d và đ khoản 2 Điều 14 của Luật khiếu nại về “Nghĩa vụ của người giải quyết khiếu nại lần đầu” quy định:

d) Gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết khiếu nại của mình; trường hợp khiếu nại do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển đến thì phải thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật;

đ) Cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung khiếu nại khi người khiếu nại yêu cầu; cung cấp hồ sơ giải quyết khiếu nại khi người giải quyết khiếu nại lần hai hoặc Tòa án yêu cầu.

 - Điểm đ khoản 2 Điều 15 của Luật khiếu nại về “Nghĩa vụ của người giải quyết khiếu nại lần hai” quy định:

đ) Cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại khi người khiếu nại, người bị khiếu nại hoặc Tòa án yêu cầu.

- Điều 7 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung quy định:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.

- Khoản 1 Điều 6 của Bộ luật tố tụng dân sự vềCung cấp chứng cứ và chứng minh” :

1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp...

- Điều 66 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Quyền, nghĩa vụ của người làm chứng”:

1. Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

2. Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải quyết vụ án.

8. Phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu việc lấy lời khai của người làm chứng phải thực hiện công khai tại phiên toà; trường hợp người làm chứng không đến phiên toà mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà.

9. Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, trừ người làm chứng là người chưa thành niên. Người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

- Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Nghĩa vụ chứng minh”

1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.

2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.

- Điều 81 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Chứng cứ”

Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.

- Điều 82 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Nguồn chứng cứ”

Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;

- Điều 83 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Xác định chứng cứ”

1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.

4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.

- Điều 85 của Bộ luật tố tụng dân sự vềThu thập chứng cứ”

1. Trong trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ.

2. Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:

a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;

b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng;

g) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.

4. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.

- Điều 87 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Lấy lời khai của người làm chứng”

1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.

- Điều 88 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Đối chất”

1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau.

2. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ ký của những người tham gia đối chất.

- Điều 58 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Quyền, nghĩa vụ của đương sự”

2. Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:

a) Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này;

b) Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

c) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án;

d) Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thẩm định giá;

m) Tranh luận tại phiên tòa;

n) Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;

o) Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác; được đối chất với nhau hoặc người làm chứng.

- Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự về “Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh”

2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.

3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.

- Điều 87 của Bộ luật lao động

1- Khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động.

2- Người lao động có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bào chữa.

3- Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.

4- Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.

- Khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP quy định

3. Thời gian thử việc không được quá 6 ngày đối với những lao động khác.

4. Hết thời gian thử việc, người sử dụng lao động thông báo kết quả làm thử cho người lao động. Nếu đạt yêu cầu hai bên phải tiến hành ký kết hợp đồng lao động hoặc người lao động không được thông báo mà vẫn tiếp tục làm việc thì người đó đương nhiên được làm việc chính thức.

- Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT quy định về “Hình thức đào tạo”

2. Người có nhu cầu cấp giấy phép lái xe hạng B2, C, D, E và giấy phép lái xe các hạng F phải được đào tạo tập trung tại cơ sở được phép đào tạo và phải được kiểm tra cấp chứng chỉ sơ cấp nghề hoặc giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo theo quy định.

Luật khiếu nại các Điều: 2, 3, 4, 5, 9, 12, 14, 15; Bộ luật dân sự các Điều: 158, 161; Bộ luật tố tụng dân sự các Điều: 6, 7, 24, 56, 58, 65, 66, 79, 80, 81, 82, 83, 85, 87, 88; Bộ luật lao động: Điều 87; Thông tư số 46/2003/TT-BGTVT: Điều 9; Nghị định số 44/2003/NĐ-CP: Điều 7;

Lý do cho nghỉ việc vô căn cứ và trái pháp luật của Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (SMI)

 
Lý do vô căn cứ và trái Điều 87 của Bộ luật lao động

Hòa giải viên lao động và đại diện của SMI đã thừa nhận “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013”. Pháp luật không quy định “việc người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu là lỗi; người lao động làm đúng việc làm đã thỏa thuận với người sử dụng lao động là lỗi; việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua là lỗi”. Đương nhiên ông Thành có quyền và nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật TTDS không phải chứng minh lý do của SMI là vô căn cứ và trái pháp luật.

Trích dẫn Đơn khiếu nại ngày 27/3/2013 khiếu nại lý do chấm dứt hợp đồng trái pháp luật:

“…Khi vào làm việc, tôi không được Công ty bàn giao xe (tình trạng, nhiên liệu, giấy tờ xe) hay hướng dẫn sử dụng các thiết bị của xe. Bằng kinh nghiệm của mình, tôi phải tự mò mẫm để vận hành xe. Khi Công ty (ông Phó Giám đốc người Pháp, kế toán Trang, phiên dịch Linh và vài kế toán khác chứng kiến) nói tôi đi đổ xăng thì tôi đi đổ xăng, người bán xăng mở nắp bình dầu chứ không phải tôi.

Mặc dù ông TGĐ nói không sao vì đã đổ thêm dầu, nhưng theo hướng dẫn của hãng Chevrolet, tôi vẫn mang xe đi hút dầu pha xăng ra và đổ dầu mới vào để đảm bảo an toàn cho xe.

Về sự việc đổ xăng vào xe chạy dầu, lỗi không phải do tôi gây ra nhưng tôi vẫn có trách nhiệm xử lý đến cùng cho sự an toàn của xe chứ không dừng lại ở việc tiếp tục sử dụng xăng pha dầu như cách xử lý của TGD. Nếu ông TGĐ muốn bắt lỗi thì phải xem lại quy trình giao nhận và sử dụng xe để phân tích lỗi, lỗi thuộc về bên nào thì bên đó phải xin lỗi.

Về báo giá lốp xe, tôi chỉ báo giá theo giá của hãng Chevrolet (Điện thoại 38681380) đã báo cho tôi. Trước đó, tôi cũng đã đề xuất với chị Phương (phiên dịch) và chị Châu (Trợ lý TGĐ) tham khảo thêm giá thị trường nhưng chị Châu chọn mua hàng của hãng Chevrolet.

Khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật: Xem Đơn  khiếu nại ngày 10/4/2014

- Phương án hòa giải của Hòa giải viên tại Biên bản hòa giải lao động ngày 24/4/2013:

- Căn cứ Điều 32 Bộ luật lao động, do ông Thành đang trong thời gian thử việc, Công ty có quyền hủy bỏ thỏa thuận làm thử mà không cần báo trước và không cần phải bồi thường do việc làm thử không đạt yêu cầu.

- Do Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013, ông Thành cũng không chứng minh được việc mình đã làm là đúng nên không có cơ sở xác định. Hòa giải không thành.

- Phòng Lao động Thương binh và Xã hội đề nghị ông Nguyễn Đức Thành gửi đơn đến Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh để được giải quyết theo thẩm quyền.

- Các mâu thuẫn của Phương án hòa giải mà ông Thành đã trình bày với Tòa án hai cấp

Mâu thuẫn 1: Hòa giải viên (HGV) áp đặt lý do mâu thuẫn với lý do của Công ty Quốc tế (SMI). Lý do của Hòa giải viên là “việc làm thử không đạt yêu cầu”. Lý do của Công ty Quốc tế là “Ông Nguyễn Đức Thành đã gây ra 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013 của SMI (Quyết định số 18)”. Lý do của HGV và SMI là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật theo Mâu thuẫn 5.

Mâu thuẫn 2: Giả sử có thời gian thử việc thì 0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP. Nghề lái xe là lao động sơ cấp theo quy định tại khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Từ ngày 01 đến ngày 26 là bao nhiêu ngày và thời gian thử việc được thỏa thuận từ ngày nào đến ngày nào mà HGV tùy tiện áp đặt “ông Thành đang trong thời gian thử việc” và không bác bỏ nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” tại Quyết định số 18 của SMI?

Mâu thuẫn 3: Giả sử có việc làm thử thì HGV tiến hành hòa giải không khách quan, không chính xác và trái pháp luật khi cho rằng SMI có quyền tùy tiện hủy bỏ thỏa thuận làm thử. HGV căn cứ Điều 32 của Bộ luật lao động mâu thuẫn với nội dung việc làm thử mà hai bên thỏa thuận không được xác định là những nội dung nào (?), ông Thành không đạt yêu cầu nào của SMI (?) hay SMI không đạt yêu cầu nào của ông Thành (?), mâu thuẫn với nội dung “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/203”, mâu thuẫn với pháp luật lao động không quy định người lao động phải thực hiện nghĩa vụ thử việc, mâu thuẫn với thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành, trái với Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh HGV không có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe không đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe.

Mâu thuẫn 4: HGV cho rằng “ông Thành không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)”. Nội dung này mâu thuẫn với bà Châu là đại diện của SMI đã thừa nhận “Không biết vì sao 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 là lỗi của ông Thành”, mâu thuẫn với HGV đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18”, mâu thuẫn với quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh của ông Thành theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự, mâu thuẫn với thực tế là ông Thành đã chứng minh 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18 không phải là lỗi của ông Thành như HGV và đại diện của SMI đã thừa nhận.

Mâu thuẫn 5: HGV và SMI đã thừa nhận “Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18” theo Mâu thuẫn 4 thì đương nhiên lý do của SMI và HGV là các lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Giả sử có thử việc thì tại thời điểm SMI cho ông Thành nghỉ việc ngày 26/5/2013 cũng đã là thời gian làm việc chính thức theo Mâu thuẫn 2. Tuy nhiên, không chứng minh được ông Thành và SMI đang thực hiện hợp đồng lao động có nội dung việc làm thử là gì (?) và thời gian thử việc là bao lâu (?) theo thỏa thuận (?) hoặc theo quy định của pháp luật (?) nhưng HGV đã tùy tiện áp đặt Điều 32 của Bộ luật lao động để giải quyết tranh chấp lao động theo ý chí chủ quan của HGV là hành vi vi cố ý thực hiện trái Điều 32 này, các khoản 2 và 3 Điều 158 của Bộ luật này và mâu thuẫn với thực tế hai bên đang thực hiện hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận “SMI đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật” và bác bỏ “nội dung (chưa hết thời gian thử việc theo qui định)lý do nêu trong Quyết định số 18” nhưng HGV lại đùn đẩy trách nhiệm này lên Tòa án hai cấp.

Ý kiến khác phát sinh theo việc khởi kiện do phát sinh tranh chấp hành chính

- Nội dung không được thể hiện trong Biên bản hòa giải lao động nhưng có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là nội dung ông Thành yêu cầu Hòa giải viên xác nhận:

- Trả lời câu hỏi “Vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành?” của Hòa giải viên. Chính bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận không biết vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành. Đó là quyết định của ông Tổng Giám đốc, bà Châu chỉ là người thực hiện và không có quyền quyết định”.

- Trả lời câu hỏi “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival đúng không?” của Hòa giải viên. Bà Châu thừa nhận và nói “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng nhưng là tài xế thì ông Thành phải biết đi đổ dầu. Nếu sai làm việc gì làm đúng việc đó thì thiếu gì tài xế, thuê ông Thành làm gì”.

- Ông Thành trình bày rằng “Tại thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng vào xe Captival máy dầu ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, TGĐ đã có kết luận sự việc không sao (đúng với thực tế là sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, xe Captival vẫn chạy bình thường), không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan. Do đó, không có cơ sở để kết luận lỗi của ông Thành và TGĐ là người chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao.

- Ông Thành đề nghị Hòa giải viên gọi điện thoại theo số điện trong đơn khiếu nại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival nhưng Hòa giải viên không thực hiện thì đương nhiên “Hòa giải viên đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival của hãng Chevrolet nên không cần phải xác minh”.

- Ông Thành tranh luận rằng “Công ty không chứng minh được lý do cho ông Thành nghỉ việc là lý do có căn cứ và hợp pháp thì không thỏa mãn được điều kiện để thực hiện Điều 32 của Bộ luật lao động”. Lạm quyền, Hòa giải viên tùy tiện căn cứ Điều 32 nhưng trích dẫn sai nội dung và áp đặt ý chí chủ quan trái Điều này là hành vi cố ý giải quyết tranh chấp lao động trái khoản 2 và khoản 3 Điều 158 BLLĐ.

- Yêu cầu Hòa giải viên giải thích làm rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên

Trích dẫn đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn:

“1. SMI đưa ra lỗi của ông Thành nhưng không chứng minh được lỗi của ông Thành thì tại sao ông Thành lại phải chứng minh là mình không có lỗi?

2. Việc làm thử mà SMI và ông Thành đã thỏa thuận là gì?

3. Việc làm thử không đạt yêu cầu nào mà hai bên đã thỏa thuận? Tại sao?

4. Đạt hay không đạt yêu cầu làm nghề lái xe có thuộc thẩm quyền quyết định của quý Phòng không? Tại sao Hòa giải viên lại đưa ra lý do (không đạt yêu cầu) trong Phương án hòa giải mâu thuẫn với lý do (Lỗi) của SMI đưa ra trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013?

5. Tại sao SMI không chứng minh được Lỗi nhưng vẫn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo Điều 32 của Bộ luật Lao động?

6. SMI không chứng minh được Lỗi nhưng Hòa giải viên không kết luận lý do là Lỗi không phải là lý do có căn cứ và hợp pháp. Tại sao?

7. SMI đưa ra lý do là Lỗi để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động miệng. Vậy, SMI đã thực hiện trái quy định tại những điều, khoản của các văn bản pháp luật nào?

8. Trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 áp đặt “chưa hết thời gian thử việc theo qui định”. Thời gian thử việc theo quy định nhưng không chỉ ra rõ ràng và cụ thể là ngày nào. Hai bên không thỏa thuận thử việc và ông Thành chưa phát hiện ra mâu thuẫn này. Hòa giải viên không làm rõ mâu thuẫn này và chưa căn cứ đúng pháp luật lao động để đưa ra Phương án hòa giải. Vậy:

8.1) Pháp luật lao động có quy định “Người lao động và người sử dụng lao động phải thực hiện việc làm thử hay thời gian thử việc khi hai bên giao kết hợp đồng lao động” không? Nếu có thì quy định tại điều, khoản của văn bản pháp luật nào? Nếu không thì thời gian thử việc trong Quyết định này có phải là nội dung bị vô hiệu không?

8.2) Công việc lái xe có bắt buộc phải thực hiện thử việc không? Nếu có thì căn cứ điều khoản của văn bản pháp luật nào, việc làm thử là gì và thời gian thử việc là bao lâu, tại thời điểm ngày 26/03/2013 SMI cho ông Thành nghỉ việc còn là trong thời gian thử việc không?

Tòa án sơ thẩm căn cứ Biên bản hòa giải lao động để giải quyết vụ án

Trích dẫn Bản án sơ thẩm:

… biên bản hòa giải tranh chấp lao động tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh, đơn khởi kiện, chính ông Thành thừa nhận giao kết giữa đôi bên là làm thử việc lái xe,…

Tòa án phúc thẩm căn cứ Bản án sơ thẩm để giải quyết vụ án

Trích dẫn Văn bản số 678:

… Việc tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thụ lý vụ án lao động giữa ông và Công ty TNHH Sài gòn đồ gỗ quốc tế về việc “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động” là phù hợp theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đức Thành. Tuy nhiên tại bản án sơ thẩm đã ghi tiêu đề là “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”. Trên cơ sở đó, tại Thông báo thụ lý số 91/LĐPT ngày 09/12/2013 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 707/2014/QĐPT-LĐ ngày 10/03/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ghi tiêu đề là “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc”, vấn đề này sẽ được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định và giải quyết tại phiên tòa phúc thẩm.

Không thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ bổ sung phát sinh theo việc khởi kiện

Trích dẫn Văn bản số 451:

… Hòa giải không thành do Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi của ông Thành và ông Thành không chứng minh được những việc mình làm là đúng; hai bên không có ý kiến nào khác và đồng ý ký vào biên bản hòa giải.

… Luật khiếu nại quy định “thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng” sẽ không được thụ lý giải quyết. Biên bản hòa giải tranh chấp lao động ghi ngày 24/4/2013, như vậy đã hết thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành.

… Căn cứ Điều 166 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 thì Tòa án nhân dân giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân mà hòa giải viên lao động hòa giải không thành.

… Như vậy, việc giải quyết tiếp đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Ông Nguyễn Đức Thành không thể yêu cầu hòa giải viên tiến hành hòa giải lại./.

Hòa giải viên, cán bộ, lãnh đạo chưa tuân thủ pháp luật

Ngày 03/4/2013, qua quan sát Hòa giải viên là ông Phạm Bình Phương Minh Hải tiến hành hòa giải cho một trường hợp tranh chấp lao động khác chưa đúng pháp luật nên ngày 04/4/2013 ông Thành nộp đơn khiếu nại yêu cầu thay đổi Hòa giải viên. Lý do khiếu nại: “Thứ nhất, Người lao động (NLĐ) hỏi ông Hải là NLĐ có được hưởng lương những ngày phía Người sử dụng lao động cho NLĐ nghỉ việc không, ông Hải trả lời trái pháp luật là không. Nếu trả lời đúng theo luật thì phải là có; Thứ hai, ông Hải trả lời chưa nhận được đơn khiếu nại ngày 27/3/2013 của ông Thành và yêu cầu ông Thành nộp lại đơn và giải quyết theo thủ tục nộp đơn mới nhưng ông Thành không đồng ý. Tuy nhiên, chiều cùng ngày, công chức khác trả lời qua điện thoại cho ông Thành biết lịch giải quyết đơn là 15g30 ngày 9/4/2013”. Ông Nguyễn Văn Ngọc là người trực tiếp nhận đơn, giải quyết khiếu nại và thay thế ông Hải để tiến hành hòa giải lao động trái nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động quy định tại các khoản 2 và khoản 3 Điều 158 của Bộ luật lao động.

Ngày 18/6/2015, ngồi quan sát hòa giải viên vẫn là ông Phạm Bình Phương Minh Hải tiến hành hòa giải cho một trường hợp tranh chấp lao động khác thấy: Thứ nhất, Hòa giải viên bác yêu cầu NSDLĐ bồi thường tiền phụ cấp của NLĐ với lý do “NLĐ không làm việc nên không được hưởng” là thực hiện trái khoản 1 Điều 41 của Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung. Thứ hai, theo điểm a khoản 3 Điều 38, khoản 4 Điều 41, Điều 42 của Bộ luật này thì Hòa giải viên bỏ sót quyền lợi của NLĐ được bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước và được hưởng trợ cấp thôi việc trong trường hợp NLĐ đã làm việc từ đủ một năm trở lên.

Ngày 10/4/2014, ông Thành nộp đơn khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên. Ông Hải trả lời sẽ giải quyết đơn trong thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật định. Tuy nhiên, sau nhiều lần đi đi lại lại, lần thì gặp ông Hải, lần thì gặp ông Ngọc, lần thì gặp cả hai ông, lần thì hẹn sẽ giải quyết, lần thì hẹn sẽ gửi văn bản giải quyết khiếu nại về nhà, mãi đến ngày 19/6/2015 ông Thành mới nhận được hai bản sao Văn bản số 451 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội.

Ngày 21/5/2014, ông Thành nộp đơn khiếu nại về “hành vi vi phạm pháp luật của người và cơ quan có thẩm quyền” tới Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh. Sau khi nộp đơn, ông Thành phát hiện đã viết sai họ tên đầy đủ của ông Phi. Ngày 26/5/2014, ông Thành nộp đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung nhưng ông Phi không nhận. Ông Phi trả lời yêu cầu giải quyết khiếu nại khẩn cấp của ông Thành là sẽ thực hiện đúng thời hạn pháp luật quy định nhưng mãi đến ngày 19/6/2015 ông Thành mới nhận được hai bản sao Văn bản số 451. Ông Thành không nhận được bất cứ văn bản giải quyết khiếu nại nào khác theo quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Áp dụng pháp luật về thu thập và cung cấp chứng cứ

Khi giao nộp Biên bản hòa giải lao động cho Tòa án thì ông Thành có quyền phát hiện những sai sót, mâu thuẫn của Biên bản này, trình bày những ý kiến khác, chứng minh những phát hiện và những ý kiến của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đó là quyền của ông Thành được quy định tại khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 2 Điều 58 và Điều 59 của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 87 và Điều 160 của Bộ luật lao động.

Khi phát hiện ra “Phương án hòa giải của Hòa giải viên” có nhiều mâu thuẫn và trái các khoản 2, 3 Điều 158 của Bộ luật lao động, ông Thành đã giao nộp văn bản tranh luận cho Tòa án để chứng minh ý kiến phản đối của mình theo quy định tại khoản 2 Điều 79 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án không thu thập chứng cứ, không tiến hành đối chất làm rõ mâu thuẫn theo quy định tại Điều 85 và Điều 88 của Bộ luật này thì đương nhiên Tòa án đã công nhận ý kiến phản đối của ông Thành là chứng cứ theo quy định tại Điều 81 của Bộ luật này. Tuy nhiên, Tòa án đã không sử dụng ý kiến phản đối của ông Thành làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án đã làm xâm phạm đến quyền tranh luận và đối chất của ông Thành theo quy định tại điểm m và o khoản 2 Điều 58 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung.

Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ, quyết định giải quyết khiếu nại là văn bản là chứng cứ theo quy định tại Điều 81, khoản 1 Điều 82, khoản 1 Điều 83 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là nhân chứng, ông Ngọc và Phòng Lao động Thương binh và Xã hội là đương sự trong vụ án theo quy định tại Điều 65, khoản 1 và 4 Điều 56 của Bộ luật này.

Tòa án lợi dụng sự nhầm lẫn pháp luật của ông Thành, mâu thuẫn của Biên bản hòa giải lao động và phớt lờ chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành để giải quyết vụ án trái pháp luật đã làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Do đó, ông Thành phải thực hiện khiếu nại để thu thập chứng cứ bổ sung theo điểm c khoản 2 Điều 58 và Điều 59 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Luật khiếu nại.

Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật thì phải được kịp thời sửa chữa, khắc phục. Khi được biết những sai sót, mâu thuẫn của Biên bản hòa giải lao động và theo yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành thì ông Ngọc có nghĩa vụxác nhận những nội dung khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo yêu cầu của ông Thành” và “giải thích làm rõ những sai sót, mâu thuẫn của Phương án hòa giải của mình” theo quy định tại khoản 1 và 2 Điều 66 của Bộ luật tố tụng dân sự, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội có trách nhiệm giải quyết khiếu nại và phối hợp giải quyết khiếu nại kịp thời, đúng pháp luật theo quy định tại Điều 5 của Luật khiếu nại để ông Thành cung cấp chứng cứ bổ sung cho Tòa án nhằm bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Xét thấy, việc Tòa án căn cứ vào tình tiết mâu thuẫn của Biên bản hòa giải lao động để giải quyết vụ án trái pháp luật đã làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Việc ông Thành khiếu nại để thu thập chứng cứ bổ sung để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là phù hợp với quy định của Bộ luật lao động, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự và Luật khiếu nại.

Về thời hiệu, thời hạn khiếu nại và yêu cầu giải quyết khiếu nại

Ông Thành không yêu cầu Hòa giải viên hòa giải lại mà yêu cầu “HGV giải thích làm rõ những mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên” và “xác nhận những nội dung không được thể hiện trong Biên bản hòa giải nhưng có liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp của vụ án lao động”.

Biên bản hòa giải lao động của Phòng Lao động Thương binh và Xã hội được lập ngày 24/4/2013. Biên bản này và văn bản thể hiện ý kiến khác của ông Thành được ông Thành giao nộp cho Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ngày 06/5/2013 trong thời hiệu khiếu nại không quá 90 ngày theo quy định tại Điều 9 Luật khiếu nại. Văn bản thể hiện ý kiến khác của ông Thành rằng “ông Thành phản đối Phương án hòa giải của Hòa giải viên và chỉ ra Phương án hòa giải này có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật”. Việc giải quyết các mâu thuẫn của Phương án hòa giải và xác định nội dung nào của Biên bản này là chứng cứ hợp pháp theo thủ tục tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án hai cấp.

Tòa án sơ thẩm căn cứ Biên bản hòa giải lao động ngày 24/4/2013 để giải quyết vụ án và ban hành Bản án sơ thẩm. Tòa án phúc thẩm căn cứ Bản án sơ thẩm để thụ lý, giải quyết vụ án, ban hành Văn bản số 678 và Bản án phúc thẩm. Do Văn bản số 678 trả lời ông Thành rằng Tòa án phúc thẩm thụ lý vụ án trên cơ sở Bản án sơ thẩm. Tòa án sơ thẩm chỉ căn cứ vào các nội dung có mâu thuẫn, không rõ ràng và vô hiệu (nội dung của Biên bản hòa giải lao động là một trong những căn cứ) của hồ sơ vụ án để ban hành Bản án sơ thẩm. Ông Thành đã tranh luận với Tòa án sơ thẩm rằng Biên bản hòa giải thể hiện Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn nhưng Tòa án không giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật là phải tiến hành làm rõ mâu thuẫn. Do đó, ông Thành phải trực tiếp thực hiện việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp theo hình thức yêu cầu Cơ quan hòa giải lao động cung cấp văn bản làm rõ những mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên thông qua việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

Do có sự giải quyết của Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với quyền khiếu nại đã được ông Thành thực hiện trong quá trình giải quyết tố tụng theo hình thức giao nộp cho Tòa án những tài liệu, chứng cứ khác nên thời hiệu hưởng quyền dân sự là quyền khiếu nại phải được tính lại từ đầu kể từ ngày ông Thành nhận được bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 158 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Mặt khác, trở ngại khách quan là do ông Thành không thể biết Tòa án hai cấp sẽ sử dụng Biên bản hòa giải lao động như thế nào vào việc giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành có bị xâm phạm không nên không thể thực hiện khiếu nại trực tiếp đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội để thu thập chứng cứ bổ sung trong thời hạn 90 ngày. Do đó, thời gian Tòa án hai cấp tiến hành tố tụng là thời gian không tính vào thời hiệu khiếu nại theo quy định tại khoản 1 Điều 161 của Bộ luật dân sự và Điều 9 của Luật khiếu nại.

Vì lẽ trên, Văn bản số 451 cho rằng đã hết thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại ngày 14/4/2013 là trả lời trái pháp luật. Văn bản này cho rằng “ông Thành yêu cầu Hòa giải viên tiến hành hòa giải lại” là không đúng yêu cầu giải quyết khiếu nại của ông Thành.

Về chứng minh và chứng cứ

Tại buổi hòa giải ngày 24/4/2013, các bên tranh chấp chỉ trình bày ý kiến của mình và Hòa giải viên đưa ra Phương án hòa giải không thành. Việc tiếp tục giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án. Các bên có quyền thay đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ và yêu cầu giải quyết tranh chấp. Nhắc lại, ngày 06/5/2013 ông Thành đã giao nộp cho Tòa án sơ thẩm Biên bản hòa giải lao động và văn bản trình bày ý kiến khác. Trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ông Thành đã giao nộp bổ sung nhiều văn bản khác để phản đối và làm rõ những sai sót, mâu thuẫn và nội dung trái pháp luật của Biên bản này.

- Nội dung “… ông Thành cũng không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)” là sai sự thật và trái pháp luật

Phương án hòa giải của Hòa giải viên cho rằng “… ông Thành cũng không chứng minh được việc mình đã làm là đúng (?)” mâu thuẫn với quy định về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Ý kiến này của Hòa giải viên là chủ quan và trái khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự vì: Thứ nhất, chính bà Hồ Thị Bảo Châu đã thừa nhận không biết vì sao 3 lỗi trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành. Đó là quyết định của ông Tổng Giám đốc, bà Châu chỉ là người thực hiện và không có quyền quyết định. Thứ hai, trong đơn khiếu nại có số điện thoại của hãng Chevrolet, ông Thành đã yêu cầu Hòa giải viên gọi điện thoại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival nhưng Hòa giải viên không gọi thì đương nhiên Hòa giải viên đã thừa nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá lốp xe Captival của hãng Chevrolet nên không cần phải xác minh. Thứ ba, bà Châu thừa nhận Công ty Quốc tế yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival. Thứ tư, Công ty Quốc tế không đưa ra các chứng cứ chứng minh lỗi của ông Thành thì ông Thành phải chứng minh ngược lại chứng cứ vô hình nào (?) theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của Bộ luật lao động. Thứ năm, Hòa giải viên cũng không có cơ sở để kết luận 3 lỗi nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/03/2013 của SMI là lỗi của ông Thành, nghĩa là ông Thành chỉ chứng minh việc mình đã làm là đúng nếu Hòa giải viên chứng minh được việc ông Thành đã làm là sai. Như vậy, khi Hòa giải viên và đại diện của SMI đã thừa nhận SMI không chứng minh được lỗi của ông thành theo quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ luật lao động thì ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Biên bản hòa giải lao động thể hiện ý kiến trình bày của ông Thành là “… Về báo giá lốp xe, tôi đã đề nghị bà Châu và bà Phương (thông dịch viên) chọn thêm sẵn Nhà cung cấp khác để ông TGĐ về quyết định chọn mua, bà Châu quyết định chọn mua lốp của hãng Chevrolet, tôi chỉ báo giá theo giá của hãng Chevrolet”, ý kiến trình bày của Công ty Quốc tế là “… Việc anh Thành trình bày về báo giá lốp xe là sai sự thật, bà Châu có yêu cầu anh Thành gặp cô Phương (thông dịch viên) để dịch lại cho ông TGĐ”. Về tranh chấp này, ông Thành đã giao nộp cho Tòa án sơ thẩm chứng cứ chứng minh bà Châu nói sai sự thậtông Thành báo giá đúng giá của hãng Chevrolet. Pháp luật không quy định việc truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán đến người mua là lỗi nên việc ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá từ người bán là hãng Chevrolet đến người mua là Công ty Quốc tế không phải là lỗi. Công ty Quốc tế áp đặt mà không chứng minh được ông Thành truyền đạt thông tin báo giá sai báo giá của hãng Chevrolet nhưng Tòa án sơ thẩm lại không bác lỗi vô căn cứ và trái pháp luật này của SMI.

Biên bản hòa giải lao động thể hiện ý kiến trình bày của ông Thành về việc đổ xăng là “Khi vào làm việc tôi đã không được bàn giao về tình trạng xe, khi Công ty nói đi xăng thì tôi đi đổ xăng”. Biên bản không thể hiện ý kiến của Công ty về việc này mặc dù bà Châu đã có ý kiến rằng “Công ty yêu cầu ông Thành đi đổ xăng nhưng là tài xế thì ông Thành phải biết đi đổ dầu. Nếu sai làm việc gì làm đúng việc đó thì thiếu gì tài xế, thuê ông Thành làm gì (?!)”. Về tranh chấp này, ông Thành đã trình bày thêm với Hòa giải viên là “Tại thời điểm xảy ra sự việc đổ xăng vào xe Captival máy dầu ngày 6/3/2013 đến thời điểm giải quyết dứt điểm sự việc ngày 8/3/2013, TGĐ đã có kết luận sự việc không sao (đúng với thực tế là sự việc không gây hậu quả nghiêm trọng nào, xe Captival vẫn chạy bình thường), không khiển trách, áp đặt lỗi hay truy cứu trách nhiệm bất cứ ai liên quan. Nội dung “Ông Nguyễn Đức Thành không thể yêu cầu hòa giải viên tiến hành hòa giải lại” của Văn bản số 451 chứng minh “Ngày 26/3/2013, Công ty Quốc tế không thể yêu cầu ông Thành giải quyết lại sự việc đổ xăng vào xe Captival xảy ra ngày 06/3/2013 đã được giải quyết dứt điểm ngày 08/3/2013” và là cơ sở để Hòa giải viên bác bỏ lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”. Do đó, không có cơ sở để kết luận lỗi của ông Thành và TGĐ là người chịu trách nhiệm về mọi hậu quả xảy ra sau khi TGĐ kết luận sự việc là không sao”, ông Thành cũng đã giao nộp cho Tòa án sơ thẩm chứng cứ chứng minh ông Thành đã thực hiện đúng nghĩa vụ theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu là Công ty Quốc tế. Pháp luật không quy định việc người có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ theo yêu cầu của người có quyền yêu cầu là lỗi nên việc đổ xăng vào xe Captival theo yêu cầu của Công ty Quốc tế không phải là lỗi của ông Thành. Công ty Quốc tế áp đặt mà không chứng minh được tại sao lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” là lỗi của ông Thành nhưng Tòa án sơ thẩm cũng lại không bác bỏ lỗi vô căn cứ và trái pháp luật này của SMI.

- Nội dung “làm thử việc… chưa hết thời gian thử việc theo qui định… đang trong thời gian thử việc” là nội dung vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật

Ông Thành khởi kiện về việc “đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật” và tranh chấp lao động về “lý do cho nghỉ việc nêu trong Quyết định số 18/2013/QĐ”. Lạm quyền, Tòa án sơ thẩm đã tùy tiện áp đặt việc khởi kiện và tranh chấp lao động về “đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc” làm phát sinh tranh chấp về hành chính giữa ông Thành với Tòa án và các cơ quan liên quan khác.

Biên bản hòa giải lao động thể hiện hai bên tranh chấp không đạt được thỏa thuận nào. Thừa nhận thực hiện theo thỏa thuận tự nguyện của hai bên khác với tôn trọng và thực hiện theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm lại căn cứ vào Biên bản này bịa đặt ra nội dung “biên bản hòa giải tranh chấp lao động tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh, đơn khởi kiện, chính ông Thành thừa nhận giao kết giữa đôi bên là làm thử việc lái xe”. Tòa án phúc thẩm sử dụng Biên bản này làm căn cứ cho rằng ông Thành “ông Thành thừa nhận ông vào làm việc tại Công ty Sài gòn đồ gỗ quốc tế là thử việc lái xe” là không công bằng, khách quan, dân chủ, công khai và sai sự thật, trái pháp luật.

Thứ nhất là không công bằng, Tòa án không bác bỏ lý do vô căn cứ và trái pháp luật của SMI khi Hòa giải viên và đại diện của SMI đã thừa nhận “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013” tại Biên bản này.

Thứ hai là không dân chủ, bất chấp những chứng cứ rõ ràng và tranh luận thấu tình đạt lý của ông Thành, Tòa án lạm quyền tùy tiện giải quyết vụ án trái pháp luật theo ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.

Thứ ba là không công khai, tại Văn bản số 678 Tòa án phúc thẩm trả lời rằng “đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hay đơn phương chấm dứt hợp đồng thử việc sẽ được Tòa án xác định và giải quyết tại phiên tòa phúc thẩm” nhưng đến khi nhận được Bản án phúc thẩm thì ông Thành mới được biết Tòa án đã sử dụng Biên bản này làm căn cứ giải quyết vụ án trái pháp luật.

Thứ tư là không khách quan, tại Văn bản số 678 và Bản án phúc thẩm Tòa án phúc thẩm đã thừa nhận “thụ lý vụ án lao động về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là phù hợp theo đơn khởi kiện của ông Nguyễn Đức Thành” nhưng vẫn giải quyết vụ án theo ý chỉ chủ quan của những người tiến hành tố tụng tiếp tay cho mâu thuẫn “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” là 30 ngày (?).

Thứ năm là sai sự thật, Biên bản này thể hiện ông Thành trình bày nội dung “… Tôi vào làm thử việc…” do nhầm lẫn pháp luật mà phát sinh theo nội dung “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” của Quyết định số 18/2013/QĐ ngày 26/3/2013 của Cty TNHH Sài Gòn Đồ gỗ Quốc tế. Thực hiện Điều 131 của Bộ luật dân sự, khi ông Thành phát hiện pháp luật lao động không quy định phải thực hiện thử việc khi người lao động và người sử dụng lao động giao kết hợp đồng lao động thì ông Thành đã giao nộp đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung và các văn bản liên quan khác để bãi bỏ nội dung nhầm lẫn này và sửa đổi là “… Tôi vào làm việc…”.

Thứ sáu là trái pháp luật, Giả sử có thử việc thì tại thời điểm Công ty Quốc tế đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Thành theo hình thức sa thải trái pháp luật đã hết thời gian thử việc không được quá 6 ngày kể từ ngày 01/3/2013 theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP, khoản 8 Điều 3 và khoản 2 Điều 9 của Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT. Không chứng minh được có thỏa thuận về thời gian thử việc theo quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động thì đương nhiên thời gian thử việc theo quy định là 0 ngày. Công ty Quốc tế và Tòa án không chứng minh được giữa ông Thành và Công ty Quốc tế thỏa thuận việc làm thử là gì và thời gian thử việc bao lâu (0 ngày ≤ thời gian thử việc đối với lao động sơ cấp = ? ngày theo thỏa thuận ≤ 6 ngày; thực tiễn chứng minh miễn thử việc đối với nghề lái xe) nhưng Tòa án lại cố ý không thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 166 Bộ luật lao động là tuyên bố nội dung “thử việc lái xe” và “(chưa hết thời gian thử việc theo qui định)” là nội dung vô hiệu do nhầm lẫn và trái pháp luật. [1]

- Quyết định số 18 là chứng cứ bác bỏ các lý do vô căn cứ và trái pháp luật

Quyết định số 18/2013/QĐ ngày 26/3/2013 của Công ty Quốc tế là chứng cứ chứng minh lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là ông Thành gây ra 3 lỗi “1. Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu; 2. Nhưng không biết nhận lỗi; 3. Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá; 3.520.000 đồng)”. Không chứng minh được lý do là có căn cứ và hợp pháp thì đương nhiên là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật thuộc trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Tuy nhiên, Hòa giải viên lại xuyên tạc lý do và đưa ra phương án hòa giải áp đặt “… do ông Thành đang trong thời gian thử việc, Công ty có quyền hủy bỏ thỏa thuận làm thử mà không cần báo trước và không phải bồi thường do việc làm thử không đạt yêu cầu (?)” mâu thuẫn với chính nội dung “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013” của Hòa giải viên. Không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành thì đương nhiên Biên bản hòa giải lao động là chứng cứ chứng minh lý do nêu trong Quyết định này là lý do vô căn cứ và trái pháp luật. Bất chấp pháp luật, Tòa án cũng không tuyên bố rằng “lý do nêu trong Quyết định này là lý do vô căn cứ và trái pháp luật, là lý do bị vô hiệu”. [2]

Nghiêm trọng hơn [1] và [2], Tòa án lại lợi dụng các tài liệu, tình tiết mâu thuẫn, không rõ ràng, bị vô hiệu như Biên bản hòa giải lao động để áp đặt “Nghề lái xe… thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định số 44/2003/NĐ-CP”. Đặc biệt nghiêm trọng, Công ty Quốc tế vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng Tòa án lại bịa đặt ra nội dung của bị đơn trình bày rằng “Ông Nguyễn Đức Thành được nhận vào làm thử việc… thỏa thuận giữa đôi bên là thử việc, trong thời gian thử việc là từ ngày 01/3/2013 đến ngày 25/3/2013 ông Thành gây ra lỗi, không đạt yêu cầu… Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ thỏa thuận làm thử mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thỏa thuận… Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu… là… không có cơ sở để chấp nhận”.

Thông tư số 46/2012/TT-BGTVT chứng minh doanh nghiệp, tòa án, cơ quan hòa giải lao động không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người có giấy phép lái xe là người không đạt yêu cầu lái xe, Thông tư này cũng chứng minh giấy phép lái xe từ hạng B2 được cấp cho người hành nghề lái xe là người đạt yêu cầu lái loại xe ghi trong giấy phép lái xe. Lạm quyền, Hòa giải viên và Tòa án không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định người lái xe là ông Thành có đạt yêu cầu lái xe hay không nhưng Hòa giải viên và Tòa án đã tùy tiện áp đặt “lý do: ông Thành không đạt yêu cầu (?)”.

Pháp luật lao động chứng minh việc áp đặt thời gian thử việc và việc làm thử là hoàn toàn trái với quy định tại Điều 9 và Điều 32 của Bộ luật lao động “quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau” và đương nhiên bị vô hiệu. Thực tiễn chứng minh nghề lái xe là miễn thử việc và ông Thành vẫn hành nghề lái xe hợp pháp sau khi Bản án phúc thẩm quyết định y án sơ thẩm được ban hành.

Tóm lại, Quyết định số 18/2013/QĐ là chứng cứ chứng minh Hòa giải viên và Tòa án xuyên tạc và áp đặt lý do mâu thuẫn với lý do của Quyết này và trái pháp luật. Quyết định này cũng chính là chứng cứ chứng minh tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật. Như vậy, SMI đã áp dụng xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải ông Thành theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 84 và trái Điều 85, Điều 87, điểm b khoản 1 Điều 38 và khoản 2, điểm a khoản 3 Điều này của Bộ luật lao động. Tuy nhiên, cả Hòa giải viên và Tòa án lại lạm quyền tùy tiện áp đặt Điều 32 của Bộ luật này để giải quyết tranh chấp lao động trái pháp luật và mâu thuẫn với việc Phòng Lao động Thương Binh và Xã hội, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh, Tòa án hai cấp phớt lờ yêu cầu xử lý kỷ luật đối với cán bộ có sai phạm của các cơ quan này.

- Tiếp tay cho lý do vô căn cứ và trái pháp luật là hành vi vi phạm pháp luật

Trái nghĩa với có căn cứ và hợp pháp đương nhiên là vô căn cứ và trái pháp luật. Khi Công ty Quốc tế không chứng minh được lỗi của ông Thành thì đương nhiên lý do cho ông Thành nghỉ việc là vô căn cứ và trái pháp luật và ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh là mình không có lỗi. Tuy nhiên, ông Thành vẫn cung cấp chứng cứ chứng minh là mình không có lỗi mà Công ty Quốc tế tùy tiện áp đặt và chứng minh Công ty Quốc tế đã đơn phương chấp dứt hợp đồng lao động theo hình thức sa thải trái pháp luật. Các bên không phản đối, đối chất, phản biện lại tranh luận của ông Thành thì đương nhiên đã chấp nhận ý kiến của ông Thành là có căn cứ và hợp pháp.

Thực hiện quyền im lặng. Tùy vào thực tế giải quyết tranh chấp mà các ý kiến khác đã được ông Thành trình bày trong các đơn khởi kiện và tài liệu liên quan đã giao nộp cho Tòa án.

Vì các lẽ trên, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội chỉ căn cứ vào Biên bản hòa giải lao động để lặp lại nội dung của Biên bản này để ban hành Văn bản số 451 cho rằng “… ông Thành không chứng minh được những việc mình làm là đúng; …do cả hai bên đều không chứng minh được lỗi của bên kia… ông Thành cũng không có ý kiến gì khác” là không chính xác, mâu thuẫn và không căn cứ vào sự thật và tình tiết liên quan của vụ việc, không đảm bảo khách quan và dân chủ, không thực hiện theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại.

Hành vi vi phạm pháp luật gia tăng

Ông Thành khiếu nại “Phương án hòa giải của Hòa giải viên có nhiều mâu thuẫn” thì Phòng Lao động Thương binh và Xã hội lại căn cứ vào Phương án hòa giải của Hòa giải viên để ban hành Văn bản số 451. Đó là căn cứ không có cơ sở, không khách quan, không hợp pháp, mâu thuẫn với “việc giải quyết khiếu nại phải căn cứ nội dung trình bày của các bên liên quan, các chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác để xác minh sự thật làm căn cứ hợp pháp để giải quyết khiếu nại đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành được bảo vệ theo quy định của pháp luật”.

Biên bản hòa giải lao động vi phạm nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động tại các khoản 2, 3 Điều 158 của Bộ luật lao động và không phải là văn bản quy phạm pháp quy. Biên bản này thuộc trường hợp bị xem xét lại theo quy định tại khoản 3 Điều 5 của Luật khiếu nại nhưng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội lại tùy tiện căn cứ vào Biên bản này để ban hành Văn bản số 451 là không đúng pháp luật, không bảo đảm khách quan, không phù hợp với quy định tại Điều 4 của Luật này. Đó là hành vi cố ý giải quyết khiếu nại trái pháp luật, bao che cho người bị khiếu nại và là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 2, 4 Điều 6 của Luật này.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động thì Tòa án, Viện kiểm sát thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm phát hiện và làm rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên, sai sót khác của Biên bản hòa giải lao động trước khi sử dụng Biên bản này để làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án theo quy định tại các Điều 85, 86, 87, 88, 94, 96 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nội dung “Phòng Lao động Thương binh và Xã hội đề nghị ông Nguyễn Đức Thành gửi đơn đến Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh để được giải quyết theo thẩm quyền... người có mặt… có ý kiến gì khác và cùng ký vào biên bản” của Biên này đã chỉ rõ “ông Thành có ý kiến gì khác thì trình bày với Tòa án để được Tòa án giải quyết theo thẩm quyền”. Phòng Lao động Thương binh và Xã hội ban hành Văn bản số 451 cho rằng “ông Thành cũng không có ý kiến gì khác” là không chính xác, trái với sự thật là ông Thành có ý kiến khác bằng văn bản khi giao nộp Biên bản này cho Tòa án, mâu thuẫn với nội dung “việc giải quyết tiếp đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân” của chính Văn bản này. Bất chấp khiếu nại của ông Thành, Tòa án hai cấp không thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự và người làm chứng, không tiến hành thực hiện đối chất… ngay cả khi ông Thành yêu cầu. Do đó, ông Thành phải tự thu thập chứng cứ bổ sung làm rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên và sửa đổi nội dung “Tôi vào làm thử việc” do nhầm lẫn pháp luật của ông Thành thể hiện tại Biên bản này là “Tôi vào làm việc” theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và pháp luật có liên quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau nhiều ngày đi đi lại lại, đến ngày 19/6/2015 ông Thành mới nhận được bản sao Văn bản số 451 tại Phòng Lao động Thương binh và Xã hội.

Xét thấy, hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là người làm chứng theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Ngọc là người biết những tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án. Vì vậy, ông Thành yêu cầu ông Ngọc xác nhận những thông tin mà ông Ngọc biết được do việc hòa giải lao động có liên quan đến việc giải quyết vụ án và giải thích rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải bằng văn bản trả lời Đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 của ông Thành là phù hợp với quyền, nghĩa vụ của ông Thành và ông Ngọc theo quy định tại các Điều 7, 58, 59, 66 của Bộ luật này và khoản 2 Điều 87, Điều 160 của Bộ luật lao động. Do đó, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội ban hành Văn bản số 451 cho rằng “ông Thành yêu cầu Hòa giải viên tiến hành hòa giải lại” là không chính xác yêu cầu của ông Thành là “ông Ngọc xác nhậnlàm rõ những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc tranh chấp lao động giữa ông Thành và Công ty Quốc tế, tranh chấp hành chính giữa ông Thành và Tòa án hai cấp”.

Xét thấy, Biên bản hòa giải lao động là của Cơ quan hòa giải lao động là Phòng Lao động Thương binh và Xã hội, theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Bộ luật tố tụng dân sự thì văn bản giải quyết khiếu nại Biên bản này là chứng cứ bổ sung phát sinh do Tòa án sử dụng Biên bản này làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án trái pháp luật đã làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành. Do đó, ông Thành khiếu nại tới Cơ quan ban hành Biên bản này là Phòng Lao động Thương binh và Xã hội là phù hợp với quyền, nghĩa vụ khiếu nại và giải quyết khiếu nại quy định tại các Điều 1, 2, 3, 7, 8, 9, 12, 13, 14 của Luật khiếu nại và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 158 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội căn cứ khoản 6 Điều 11 của Luật khiếu nại ban hành Văn bản số 451 cho rằng “thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng” là trả lời trái pháp luật.

Xét thấy, do tính chất “khẩn cấp” của việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án, thời hạn giải quyết khiếu nại đã hết mà đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 không được thụ lý giải quyết, Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, Chủ tịch là người chịu trách nhiệm cao nhất của UBND quận Bình Thạnh và là cấp trên trực tiếp của Trưởng phòng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội. Do đó, ông Thành đã nộp Đơn khiếu nại ngày 21/5/2014 đề gửi Chủ tịch UBND quận Bình Thạnh. Tuy nhiên, ông Phi trả lời “Gửi đơn cho ai là quyền của ông Thành còn chuyển đơn cho Phòng Lao động Thương binh và Xã hội giải quyết là quyền của ông Phi”. Việc làm của ông Phi là trái với trình tự khiếu nại quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật khiếu nại, làm xâm phạm đến quyền “được cung cấp văn bản giải quyết khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày 10/4/2014” của ông Thành theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Luật này, là tùy tiện thực hiện trái quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã được quy định rõ tại khoản 2 Điều 18 của Luật này, là lạm quyền làm trái nguyên tắc “giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời” theo quy định tại Điều 4 Luật này.

Ông Thành phải nộp đơn qua đường bưu chính do Phòng Lao động Thương binh và Xã hội và Phòng tiếp dân của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh cứ đùn đẩy nhau việc tiếp nhận Đơn khiếu nại ngày 10/4/2014. Do đó, ngày ông Thành nộp đơn phải được tính từ ngày 10/4/2014 và đương nhiên ngày này cũng được tính là ngày Phòng Lao động Thương binh và Xã hội đã nhận đơn của ông Thành. Vì sao đến ngày 14/4/2014 Phòng Lao động Thương binh và Xã hội mới nhận được đơn khiếu nại của ông Thành thì phải xem xét đến trách nhiệm của những người liên quan đến việc tiếp nhận đơn không đúng quy định của pháp luật. Việc ông Phi không tiếp nhận Đơn khiếu nại sửa đổi, bổ sung ngày 26/5/2014 của ông Thành cũng là hành vi vi phạm pháp luật.

Căn cứ việc ông Thành nộp đơn khiếu nại cho Phòng Lao động Thương binh và Xã hội ngày 10/4/2014 và Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh ngày 21/5/2014; Căn cứ việc ngày 19/6/2015 ông Thành chỉ nhận được hai “bản sao” Văn bản số 451 đề ngày 27/6/2014; Căn cứ việc ông Hải và ông Phi trả lời ông Thành rằng “sẽ giải quyết đơn trong thời hạn luật định” mâu thuẫn với thời hạn thực tế giải quyết khiếu nại;

Việc giải quyết khiếu nại không được thực hiện trong thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật là “không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý” và không bằng hình thức quyết định là các hành vi vi phạm pháp luật được quy định rõ ràng tại khoản 3 Điều 6, Điều 27, Điều 28 của Luật khiếu nại. Biết rõ văn bản giải quyết khiếu nại của đơn khiếu nại các ngày 10/4/2014 và 21/5/2014 là chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án của ông Thành tại Tòa án nhưng những người giải quyết khiếu nại không thực hiện nghĩa vụ cung cấp văn bản theo yêu cầu của ông Thành trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày 10/4/2014 theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm d, đ khoản 2 Điều 14 của Luật này, Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 58, Điều 59 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Thành yêu cầu giải quyết khiếu nại “Tại sao Phòng Lao động Thương binh và Xã hội không phát hành biên nhận đơn Đơn khiếu nại ngày 10/4/2014 theo yêu cầu của ông Thành? Tại sao không giải quyết Đơn này trong thời hạn luật định?... những hành vi vi phạm pháp của những người liên quan” nhưng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội không có ý kiến gì thể hiện trong Văn bản số 451.

KẾT LUẬN

1. Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc là người làm chứng “việc bà Châu thừa nhận Công ty Quốc tế có yêu cầu ông Thành đi đổ xăng cho xe Captival và ông TGĐ đã giải quyết dứt điểm vụ việc với kết luận việc đổ xăng vào xe Captival là không sao”. Việc thừa nhận của bà Châu là chứng cứ chứng minh lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu” không phải là lỗi của ông Thành. Văn bản số 451 là chứng cứ chứng minh “Ngày 26/3/2013, Công ty Quốc tế không thể yêu cầu ông Thành giải quyết lại sự việc đổ xăng vào xe Captival xảy ra ngày 06/3/2013 đã được giải quyết dứt điểm ngày 08/3/2013” và là cơ sở để Hòa giải viên bác bỏ lỗi “Là tài xế nhưng lại đổ xăng vào xe chạy dầu”.

Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc không gọi điện thoại cho hãng Chevrolet để xác minh thông tin báo giá lốp xe Captival theo yêu cầu của ông Thành đương nhiên là Hòa giải viên đã xác nhận ông Thành truyền đạt đúng thông tin báo giá và lỗi “Báo giá lốp xe Dunlop vượt quá nhiều với giá ông chủ đã mua (Ông Thành báo giá: 5.900.000 đồng, Ông Chủ mua giá; 3.520.000 đồng)” không phải là lỗi của ông Thành.

Nhân viên lái xe thì đương nhiên việc làm là lái xe. Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013 của SMI là chứng cứ chứng minh ông Thành là nhân viên lái xe. Việc lái xe không phải là việc nhận lỗi. Pháp luật không quy định “người lao động làm đúng việc làm đã thỏa thuận với người sử dụng lao động là lỗi” nên lỗi “Nhưng không biết nhận lỗi” đương nhiên không phải là lỗi của ông Thành.

Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc đã kết luận “Công ty TNHH Sài Gòn Đồ Gỗ Quốc Tế (S.M.I) không chứng minh được lỗi vi phạm của ông Thành như đã nêu trong Quyết định số 18/QĐ/2013 ngày 26/3/2013”.

Đại diện của Công ty Quốc tế và Hòa giải viên đã thừa nhận không chứng minh được lỗi của ông Thành theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật lao động và không phản đối các chứng cứ, tình tiết liên quan mà ông Thành đưa ra thì đương nhiên ông Thành có quyền và nghĩa vụ không phải chứng minh lý do của Công ty Quốc tế là vô căn cứ và trái pháp luật theo quy định tại Điều 80 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, Văn bản số 451 lặp lại nội dung của Biên bản hòa giải lao động rằng “ông Thành không chứng minh được những việc mình làm là đúng” là không chính xác và trái pháp luật. Nội dung “do cả hai bên đều không chứng minh được lỗi của bên kia” của Văn bản này rất mâu thuẫn, không phù hợp với quy định của pháp luật và trái với sự thật mà ông Thành đã trình bày ở trên.

2. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết tiếp tranh chấp lao động đã được Hòa giải viên hòa giải không thành đã phát sinh tranh chấp hành chính giữa ông Thành với Tòa án và các cơ quan có liên quan. Tranh chấp về hành chính có ảnh hưởng và thực tế đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tranh chấp về lao động. Hòa giải viên đương nhiên trở thành nhân chứng và người có nghĩa vụ liên quan. Ông Thành có quyền thu thập bổ sung chứng cứ từ cơ quan có liên quan là Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh và nhân chứng là hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc để giao nộp cho Tòa án. Thời hiệu, thời hạn để ông Thành yêu cầu Hòa giải viên xác nhận nội dung không được thể hiện trong Biên bản hòa giải lao động như trình bày trên và giải thích làm rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên thông qua hình thức khiếu nại hoặc yêu cầu cung cấp chứng cứ đương nhiên là không xác định hoặc phải được tính lại từ đầu theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 158, khoản 1 Điều 161 của Bộ luật dân sự, Điều 9 của Luật khiếu nại.

Văn bản số 451 chứng minh Phòng Lao động Thương binh và Xã hội áp dụng không chính xác, không đầy đủ và vô nguyên tắc khi căn cứ Điều 9 và khoản 6 Điều 11 của Luật khiếu nại mà cho rằng “đã hết thời hiệu giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Đức Thành”.

Như vậy, Phòng Lao động Thương Binh và Xã hội quận Bình Thạnh không giải quyết Đơn khiếu nại ngày 14/4/2014 (bản chất là đơn yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ) của ông Thành là trái pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành.

3. Văn bản 451 cố ý đánh lạc hướng việc giải quyết khiếu nại (thực chất là việc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ) bằng việc cho rằng “ông Thành yêu cầu hòa giải viên tiến hành hòa giải lại”. Yêu cầu chính của việc ông Thành khiếu nại là: Thứ nhất, Hòa giải viên Nguyễn Văn Ngọc xác nhận nội dung không được thể hiện trong Biên bản hòa giải lao động mà ông Thành trình bày ở trên nhưng có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án là đúng; Thứ hai, Hòa giải viên giải thích rõ mâu thuẫn của Phương án hòa giải của Hòa giải viên mà ông Thành đã chỉ ra.

4. Nội dung “…những người có mặt…không có ý kiến gì khác và cùng ký vào biên bản hoặc có ý kiến gì khác và cùng ký vào biên bản hoặc có ý kiến khác như sau…” của Biên bản hòa giải lao động đã chỉ rõ ràng rằng ông Thành thực hiện quyền im lặng và còn có ý kiến khác không thể hiện trong Biên bản này. Thực tế, ông Thành đã trình bày các ý kiến khác không được thể hiện trong Biên bản nhưng có liên quan đến việc giải quyết vụ án trong các đơn khởi kiện và tài liệu liên quan đã giao nộp cho Tòa án. Quan trọng hơn, những nội dung sử dụng để làm cơ sở giải quyết tranh chấp lao động và tranh chấp hành chính của vụ án mà có mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng thì đương nhiên phải được làm rõ mâu thuẫn theo quy định của pháp luật. Phòng Lao động Thương binh và Xã hội có nghĩa vụ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ là quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 7 của Bộ luật tố tụng dân sự.

5. Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Về hình thức, qua quan sát thì các ông Hải, ông Phi và ông Ngọc có thái độ thay đổi tích cực hơn nên được xem là tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, về nội dung, Văn bản số 451 là chứng cứ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thành vẫn chưa được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật, việc tiến hành hòa giải cho trường hợp tranh chấp lao động khác ngày 18/6/2015 là chứng cứ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động không được đảm bảo đầy đủ theo quy định của pháp luật.

6. Ông Thành khiếu nại Phương án hòa giải của Hòa giải viên tại Biên bản hòa giải lao động có nhiều mâu thuẫn và trái pháp luật. Biên bản này không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội lại căn cứ Biên bản này để ban hành Văn bản số 451 là thực hiện trái nguyên tắc giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 4 của Luật khiếu nại: Thứ nhất, vi phạm nguyên tắc việc giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật; Thứ hai, chỉ căn cứ chính văn bản bị khiếu nại là Biên bản này để ban hành Văn bản số 451 là vi phạm nguyên tắc bảo đảm khách quan và dân chủ; Thứ ba, sau thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật định, Văn bản số 451 được ban hành ngày 27/6/2014 nhưng đến ngày 19/6/2015 ông Thành chỉ nhận được hai bản sao của Văn bản này là vi phạm nguyên tắc đảm bảo công khai và kịp thời.

II. YÊU CẦU GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Để có tài liệu cung cấp kịp thời cho Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết khiếu nại và giám đốc thẩm. Đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh và Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh giải quyết khẩn cấp các yêu cầu giải quyết khiếu nại sau:

1. Thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp quận, Phó Bí thư Quận ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân quận Bình Thạnh. Đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh chủ động phát hiện những sai phạm của các Hội thẩm nhân dân là ông Mã Văn Trọng và bà Bùi Thị Cẩm Vân, Thẩm phán Trần Đăng Tân, Thư ký Tòa án Đoàn Quốc Dũng và có biện pháp xử lý kỷ luật đối với những người tiến hành tố tụng, Chánh án Phạm Doãn Hiếu và những người liên quan khác của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh theo quy định của pháp luật.

2. Thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên, lãnh đạo, đại biểu nhân dân. Căn cứ khoản 2 Điều 17 và các điều 282, 283, khoản 2 Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung. Đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 285 của Bộ luật này để xét lại Bản án lao động phúc thẩm số 1186/2014/LĐ-PT ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh theo thủ tục giám đốc thẩm.

3. Giải quyết các đơn khiếu nại ngày 10/4/2014, 21/5/2014 và sửa đổi, bổ sung ngày 26/5/2016 theo đúng quy định của pháp luật.

4. Bãi bỏ Văn bản số 451.

5. Áp dụng xử lý kỷ luật theo hình thức cho nghỉ việc đối với ông Nguyễn Văn Cang. Lý do ông Cang đã gây ra các lỗi “1. Là Trưởng phòng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội nhưng lại ký vào Văn bản số 451 có nội dung trái pháp luật và không căn cứ vào sự thật và các tình tiết liên quan của vụ việc; 2. Không kịp thời sửa chữa, khắc phục những mâu thuẫn của Biên bản hòa giải lao động mà ông Thành đã chỉ ra là trái pháp luật trong thời hạn giải quyết khiếu nại theo luật định; 3. Ông Thành nhận được Văn bản số 451 trễ hạn vượt quá nhiều với thời hạn mà pháp luật đã quy định”.

Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của Phòng Lao đông Thương binh và Xã hội quận Bình Thành về việc phúc đáp Phiếu chuyển số 527/PC-VP ngày 26/5/2014 của Văn phòng UBND Quận (trang 1)
Văn bản số 451/LĐTBXH ngày 27/6/2014 của Phòng Lao đông Thương binh và Xã hội quận Bình Thành về việc phúc đáp Phiếu chuyển số 527/PC-VP ngày 26/5/2014 của Văn phòng UBND Quận (trang 2)


Biên bản tiếp công dân
ngày 10 tháng 9 năm 2015
của
Ban tiếp công dân UBND quận Bình Thạnh

Biên bản tiếp công dân ngày 10/09/2015 của Ban tiếp công dân UBND quận Bình Thạnh

Thông báo số 869 và Ý kiến của Ban tiếp công dân UBND quận Bình Thạnh trái với quy định tại Khoản 9 Điều 11 của Luật khiếu nại năm 2011: Tòa án nào (?) đã giải quyết tranh chấp hành chính giữa ông Nguyễn Đức Thành và Phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Bình Thạnh bằng bản án có hiệu lực pháp luật nào?

Biên bản tiếp công dân ngày 10/09/2015 của Ban tiếp công dân UBND quận Bình Thạnh (trang 2)

MB85

CÔNG TY TNHH MTV THƯƠNG HIỆU VẬN TẢI BA THÀNH
Địa chỉ: 248/25 Bùi Thị Xuân, Q. Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.6899.6850 & 08.6899.6846 - Hotline: 0912 82 2628
Email: info@thuonghieudoanhnghiep.vn